Mười hiệu ứng tâm lý học ảnh hưởng cuộc đời, học được cả đời có ích

Giúp NTDVN sửa lỗi

Làm chủ được các hiệu ứng tâm lý cho phép chúng ta đưa ra phương thức đối đãi với người khác một cách hợp lý hơn, giải quyết công việc và kiểm soát cuộc sống của chính mình tốt hơn. Trong bài viết này tuyển chọn và đưa ra  những tác động tâm lý điển hình đằng sau cuộc sống hàng ngày, chúng ta hãy thử đối chiếu với bản thân.

Hiệu ứng tâm lý là một phản ứng nhân quả hoặc phản ứng dây chuyền trong đó hành vi hoặc tác động của một người hoặc vật làm cho người hoặc vật khác thay đổi tương ứng. Bằng cách giải thích ảnh hưởng của các hiệu ứng tâm lý đối với bản thân và phân tích các hành vi phi lý tính không dễ phát hiện, người ta có thể hiểu rõ hơn về bản thân, hiểu người khác và nhìn nhận xã hội.

Mười hiệu ứng tâm lý ảnh hưởng đến cuộc sống, nắm vững một cái cũng sẽ có lợi cả đời.

Định lý Giegler: Đặt mục tiêu cao tương đương với việc đạt được một phần của mục tiêu

Ông Charles Michael Schwab, người sáng lập Công ty Thép Bethlehem ở Hoa Kỳ, sinh ra ở nông thôn và có trình độ học vấn rất thấp. Năm 18 tuổi, ông đến làm việc tại một công trường xây dựng thuộc sở hữu của ông trùm thép Carnegie. Ngay khi bước chân vào công trường, Schwab đã quyết tâm trở thành người giỏi nhất trong số các đồng nghiệp của mình.

Vào ban đêm, khi những người bạn trò chuyện, ông trốn vào một góc và đọc sách. Trước sự nghi ngờ của người quản lý và sự mỉa mai của đồng nghiệp, ông tin chắc rằng thứ công ty thiếu không phải là những công nhân có nền tảng, mà là những người quản lý và nhân viên kỹ thuật. Ông không chỉ làm việc cho ông chủ để kiếm tiền mà còn nỗ lực cho ước mơ và tương lai rộng lớn của mình.

Với niềm tin như vậy, Schwab đã tiến bộ vượt bậc, được Carnegie bổ nhiệm làm chủ tịch công ty thép, cuối cùng ông cũng thành lập Công ty thép Bethlehem và đạt được thành tích phi thường. Nếu bạn có một mục tiêu cao cả ngay từ đầu, bạn sẽ thể hiện một tầm nhìn khác, và dần dần hình thành thói quen và phương pháp làm việc tốt, để mỗi bước đi đều đi đúng hướng.

Công thức Carell: Lo liệu cho điều tồi tệ nhất, chuẩn bị cho điều tốt nhất

Ở Hoa Kỳ có một quảng cáo tuyển dụng vừa hài hước vừa dí dỏm. Nội dung của nó như sau:

“Đi lính đi! Đi lính thực ra cũng không có gì ghê gớm. Sau khi nhập ngũ, bạn không có gì khác ngoài hai khả năng: có chiến tranh hoặc không có chiến tranh. Không có chiến tranh thì có gì phải sợ? Có chiến tranh thì có hai khả năng: ra tiền tuyến hoặc không ra tiền tuyến; không ra tiền tuyến thì có gì phải sợ?

Ra tiền tuyến lại có hai khả năng: bị thương hoặc không bị thương; không bị thương có gì đáng sợ? Bị thương sẽ có hai khả năng: bị thương nhẹ hoặc bị thương nặng; bị thương nhẹ có gì đáng sợ? Bị trọng thương lại có hai khả năng: chữa được và không chữa được; chữa được thì có gì đáng sợ? Còn không chữa được lại càng không đáng sợ bởi vì bạn đã chết rồi”.

Khi mọi người chuẩn bị tâm lý để chấp nhận điều tồi tệ nhất, nó sẽ có lợi cho việc đối phó và cải thiện các tình huống phát sinh. Nói cách khác, khi mọi người bình tĩnh đối mặt với tình huống xấu nhất có thể xảy ra, sẽ có lợi nếu dùng thái độ tích cực để chuyển tình huống xấu nhất sang hướng tốt đẹp.

Dùng thái độ tích cực để chuyển tình huống xấu nhất sang hướng tốt đẹp. (Pexels)

Hiệu ứng Wallach: Mọi người đều là thiên tài, chỉ cần tìm điểm xuất phát ưu thế nhất của bạn

Otto Wallach là người đoạt giải Nobel Hóa học, và quá trình thành công của ông mang đầy màu sắc truyền kỳ phong phú. Khi Wallach bắt đầu học cấp hai, cha mẹ đã lựa chọn cho ông đi theo con đường văn học, sau một học kỳ, giáo viên đã viết lời nhận xét: “Wallach rất chăm chỉ. Nhưng quá cứng nhắc, rất khó để trau dồi tài năng văn chương”.

Vì vậy, cha mẹ đã yêu cầu ông chuyển sang học vẽ tranh sơn dầu, nhưng Wallach không giỏi về bố cục và đánh bóng, và thành tích của ông luôn đứng cuối lớp. Đối mặt với một học sinh “vụng về” như vậy, hầu hết các giáo viên đều cho rằng Wallach không có hy vọng thành công. Chỉ có giáo viên hóa học cho rằng, Wallach cẩn thận, tỉ mỉ trong công việc và có tố chất làm tốt các thí nghiệm hóa học, nên đề nghị Wallach học môn hóa học. Tia sáng trí tuệ của Wallach lập tức được nhóm lên và cuối cùng đã đạt được những thành tựu to lớn.

Thành công của Wallach đã minh chứng cho một đạo lý rằng: sự phát triển trí tuệ của học sinh là không cân bằng, chỉ khi tìm ra điểm tốt nhất để phát huy và tận dụng trí tuệ của bản thân, mới có thể đạt được những thành tích đáng kinh ngạc.

Định lý Goodman: Đôi khi im lặng là cách giao tiếp tốt nhất

Trong một số hoạt động kinh doanh, im lặng đúng lúc cũng là một kỹ năng giao tiếp hiệu quả. Một giám đốc nhà máy dự định thanh lý một lô máy móc cũ trong nhà máy với giá rẻ, và mức giá tối thiểu mà ông ước tính là 500.000 $. Trong quá trình đàm phán, một người mua đã phàn nàn rất lâu về những khiếm khuyết của những chiếc máy này, nói rằng chúng đã bị loại bỏ từ lâu, tình trạng không tốt và chúng không có giá trị gì nhiều. Giám đốc nhà máy không nói lời nào, và kiên nhẫn lắng nghe những lời phàn nàn của phía bên kia.

Cuối cùng, người mua không còn tìm được lời nào để chỉ trích, đột nhiên nói: “Tôi chỉ có thể trả cho anh lô máy này nhiều nhất là 800.000 $. Nếu cao hơn, tôi thực sự không muốn”.

Người giám đốc đã rất vui mừng, ngay lập tức thực hiện thỏa thuận mua bán. Giám đốc nhà máy trên giỏi giữ im lặng đã dễ dàng kiếm thêm 300.000 $ mà không cần nói một lời nào.

Người có giá trị nhất không nhất thiết phải là người có thể nói nhiều nhất. Biết lắng nghe là phẩm chất cơ bản nhất của một người trưởng thành. Khi bạn có thể tâm lĩnh thần hội, sẽ thấy sự im lặng đáng giá hơn ngàn lời nói.

Sự im lặng đáng giá hơn ngàn lời nói. (Pexels)

Hiệu ứng lựa chọn của Hobson: Khi dường như chỉ còn một con đường để đi, con đường này thường sai

Năm 1631, khi Hobson, một doanh nhân ở Cambridge nước Anh, bán ngựa, ông thả ngựa ra cho khách hàng lựa chọn, nhưng ông thêm một điều kiện là chỉ được chọn con ngựa gần cửa nhất. Rõ ràng, thêm điều kiện này thực sự tương đương với việc không cho phép lựa chọn. Đối với cái gọi là “sự lựa chọn” không có lựa chọn này, các thế hệ sau đã chế giễu nó là “hiệu ứng lựa chọn của Hobson”.

Các nhà tâm lý học xã hội chỉ ra rằng nếu ai rơi vào tình trạng khó khăn của “Hiệu ứng lựa chọn Hobson” thì không thể thực hiện được việc học tập, sinh sống và công tác một cách sáng tạo. Đạo lý rất đơn giản là tốt và xấu đều là sinh ra trong quá trình so sánh lựa chọn, chỉ có vạch ra phương án số lượng và chất lượng nhất định mới có thể so sánh lựa chọn, phán đoán hợp lý.

Nếu phán đoán chỉ yêu cầu nói “có” hoặc “không”, thì đó không phải là phán đoán. Chỉ bằng cách tiến hành nghiên cứu giữa nhiều hướng thay thế để so sánh và có thể đưa ra quyết định trên cơ sở hiểu chúng thì mới được coi là phán đoán. Do đó, việc không có sự lựa chọn tương đương với việc bóp nghẹt sự sáng tạo.

Hiệu ứng quyền uy: Người địa vị thấp kém lời nói không được coi trọng, người địa vị cao quý lời nói được coi trọng

Các nhà tâm lý học người Mỹ đã từng tiến hành một thí nghiệm, khi giảng bài cho sinh viên khoa tâm lý của một trường đại học nào đó, họ giới thiệu với sinh viên một giáo sư người Đức được mời từ trường khác, nói rằng giáo viên người Đức đó là một nhà hóa học người Đức nổi tiếng.

Trong phần thí nghiệm, “nhà hóa học” nghiêm túc lấy ra một lọ đựng nước cất và nói rằng đó là một chất hóa học mà ông mới phát hiện ra, có mùi và yêu cầu các sinh viên có mặt giơ tay khi ngửi thấy mùi. Kết quả là hầu hết học sinh đều giơ tay. Đối với nước cất không có mùi, tại sao đa số học sinh cho rằng nước cất có mùi và giơ tay?

Điều này là vì có một hiện tượng tâm lý xã hội phổ biến được gọi là hiệu ứng quyền uy. Cái gọi là hiệu ứng uy quyền có nghĩa là nếu người nói có địa vị xã hội cao, sự nghiệp thành đạt, có uy tín và được kính trọng thì những gì người đó nói có khả năng thu hút sự chú ý của người khác và tin vào sự đúng đắn của người này.

Hiệu ứng danh thiếp: Tâm lý danh thiếp có thể tạo điều kiện cho việc thiết lập các mối quan hệ giữa các cá nhân nhanh hơn

Có một thanh niên đi xin việc bị nhiều cơ quan từ chối. Vì vậy, trước khi xin việc ở một công ty khác, anh đã hỏi trước về lý lịch của người phụ trách công ty, không ngờ lại biết được người phụ trách đó cũng từng có kinh nghiệm giống mình. Vì vậy, khi nộp đơn xin việc, anh ấy cũng nói về những thăng trầm trong quá trình tìm việc của mình, và sự bất bình khi có tài mà không gặp thời. Và những lời này đã thực sự chiếm được thiện cảm và đánh giá cao của người phụ trách công ty, cuối cùng người thanh niên đã ứng tuyển thành công.

Đây được gọi là hiệu ứng danh thiếp. Khi hai người gặp gỡ, nếu đầu tiên thể hiện bản thân có thái độ và giá trị quan giống đối phương, điều đó sẽ khiến đối phương cảm thấy bạn và anh ấy có nhiều điểm tương đồng, từ đó nhanh chóng thu hẹp khoảng cách tâm lý với bạn, và tiến lại gần nhau hơn.

Nắm bắt thông tin và thái độ của đối phương, đồng thời tìm kiếm điểm chung giữa đối phương và chính bạn. Do đó, tâm lý danh thiếp được tạo ra, thông qua việc sử dụng đúng cách, có giá trị thực tế to lớn trong việc xử lý giao tiếp giữa các cá nhân và thiết lập mối quan hệ giữa các cá nhân.

Hiệu ứng phóng chiếu: Mọi người thường hay sử dụng ý kiến của bản thân để đoán suy nghĩ của người khác

Khi chúng ta nhìn nhận và đánh giá người khác trong giao tiếp giữa các cá nhân, chúng ta thường suy đoán và đánh giá người khác dựa trên kinh nghiệm và cảm nhận của bản thân đối với sự vật. Chúng ta luôn có thói quen suy nghĩ cho rằng nhận thức chủ quan của mình về sự vật là nhận thức của người khác, trong khi bỏ qua rằng nhận thức và tiêu chuẩn đo lường của mọi người là khác nhau, bởi vì trải nghiệm của mỗi người là khác nhau .

Đây là hiệu ứng phóng chiếu trong tâm lý học, chủ yếu có nghĩa là mọi người trong tiềm thức luôn thích cho rằng những người khác có cùng khuynh hướng và quan điểm với mình. Đây là một hiệu ứng tâm lý của việc tự mình đánh giá người khác, và nó là một trở ngại nhận thức khi phóng chiếu cảm xúc, ý chí, v.v. của chính mình lên người khác. Ví dụ, một người thích ganh đua luôn nghĩ rằng những người khác thích cạnh tranh với mọi người, và một người thích ăn sầu riêng sẽ thấy những người không thích sầu riêng thật là lạ lùng.

Học cách đồng cảm, đặt mình vào vị trí người khác để suy nghĩ là một cách hiệu quả tránh hiệu ứng phóng chiếu, đồng thời nó cũng có thể giúp bạn giao tiếp với người khác dễ dàng hơn và đạt được sự đồng thuận.

Học cách đồng cảm, đặt mình vào vị trí người khác để suy nghĩ. (Pexels)

Hiệu ứng Barnum: Nhận thức chính xác bản thân là điều khó nhất

"Bạn rất muốn được người khác yêu thích và tôn trọng. Bạn có xu hướng tự phê bình. Bạn có nhiều năng lực mà có thể là điểm mạnh của bạn nhưng lại không được phát huy, đồng thời bạn cũng có một số điểm yếu, mặc dù nhìn chung bạn có thể khắc phục chúng. Bạn có khó khăn khi tiếp xúc với người khác giới, dù bề ngoài bạn tỏ ra điềm tĩnh nhưng bên trong lại lo lắng, bồn chồn. Đôi khi bạn nghi ngờ liệu những quyết định mình đưa ra hay những việc mình làm có đúng đắn hay không.

Bạn thích sự đa dạng trong cuộc sống và ghét bị người khác kiềm chế. Bạn tự hào mình là một người có suy nghĩ độc lập và không chấp nhận lời khuyên của người khác nếu không có bằng chứng chắc chắn. Bạn nghĩ rằng thật không khôn ngoan khi quá bộc lộ bản thân với người khác. Đôi khi bạn hướng ngoại, dễ gần và hòa đồng, trong khi những lúc khác bạn lại dè dặt, thận trọng. Một số tham vọng của bạn có xu hướng khá phi thực tế”.

Bạn có nghĩ rằng đoạn văn này mô tả rất đúng về bản thân bạn? Trên thực tế, đây là mô tả phù hợp với bất kỳ ai. Mọi người thường nghĩ rằng một bản mô tả tính cách chung chung và thông thường sẽ tiết lộ rất chính xác đặc điểm của họ, thực tế đây chỉ là một bản tóm tắt sơ bộ về bản chất và tính cách con người, xu hướng này được gọi là hiệu ứng Barnum.

Hiệu ứng Barnum được sử dụng rộng rãi trong cuộc sống dùng cho tính toán các lĩnh vực liên quan đến tâm lý, đặc biệt là đối với những người thiếu cảm giác an toàn và họ có nhiều gợi ý hơn người bình thường.

Hiệu ứng võng mạc: Cuộc sống giống như một tấm gương. Bạn khóc với nó, nó sẽ khóc với bạn; bạn cười với nó, nó sẽ cười với bạn.

Trong cuộc đời, có lẽ ai cũng từng có những trải nghiệm tương tự như sau, khi đắn đo rất lâu mới mua được một đôi giày, khi đang đắc ý bỗng thấy đi đến đâu dường như cũng thấy người ta va vào giày mình. Hoặc bởi vì bản thân mình có khuyết điểm nên thấy người khác hình như cũng có khuyết điểm này.

Hiện tượng này được gọi là “hiệu ứng võng mạc” trong tâm lý học. Khi bản thân chúng ta có một cái gì đó hoặc một đặc điểm, chúng ta chú ý nhiều hơn đến việc liệu những người khác có cùng thứ đó hoặc đặc điểm đó như chúng ta hay không.

Con người muốn phát triển thói quen đánh giá cao và khẳng định bản thân. Một người có thể nhìn thấy ưu điểm của mình, dưới ảnh hưởng của hiệu ứng võng mạc, cũng sẽ nhìn thấy điểm tốt của người khác. Có thể nhìn những người xung quanh bạn theo hướng tích cực thường là điều kiện tiên quyết để có những mối quan hệ tốt đẹp.

Theo Aboluowang

Minh An biên dịch



BÀI CHỌN LỌC

Mười hiệu ứng tâm lý học ảnh hưởng cuộc đời, học được cả đời có ích