‘Áp lực chọn bên’: Việt Nam và ASEAN sẽ làm gì trong cuộc đối đầu Mỹ - Trung ở Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương?

Giúp NTDVN sửa lỗi

Làm thế nào để Việt Nam và Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) điều khiển “áp lực chọn bên” trong cuộc cạnh tranh Mỹ - Trung? Những thách thức chính đối với nền kinh tế và an ninh quốc gia của Việt Nam là gì, khi Việt Nam đang tìm kiếm sự tăng trưởng và phát triển nhanh chóng?

Để có góc nhìn về những vấn đề này, ông Jongsoo Lee - Đối tác tại Brock Group và là thành viên tại Trung tâm Davis của Đại học Harvard về Nghiên cứu Nga và Á-Âu - đã phỏng vấn ông Lê Hồng Hiệp - thành viên Chương trình Nghiên cứu Việt Nam và Chương trình Nghiên cứu Chính trị và Chiến lược Khu vực tại Viện ISEAS-Yusof Ishak, Singapore.

Ông Lee: Ông đánh giá như thế nào về triển vọng ASEAN trở nên giống như Liên minh châu Âu (EU) hơn - trong việc phát triển một chính sách đối ngoại chung? Các quốc gia thành viên ASEAN muốn hội nhập sâu rộng hơn trong những lĩnh vực nào?

Ông Hiệp: Các nước thành viên ASEAN không mấy mặn mà với việc biến ASEAN thành một cơ quan siêu quốc gia như EU do muốn đảm bảo về chủ quyền quốc gia của họ. Do đó, ngay cả khi quá trình hội nhập ASEAN tăng tốc cùng với việc thành lập cộng đồng ASEAN vào năm 2015, vẫn có những giới hạn đối với việc ASEAN có thể tiến xa trong vấn đề này.

Cho đến nay, hội nhập kinh tế vẫn là ưu tiên của khối này, trong khi hội nhập chính trị và an ninh, bao gồm cả việc phát triển một chính sách đối ngoại chung, vẫn là một quá trình khó nắm bắt.

Chúng ta nên thực tế ở đây bởi vì ngay cả những nỗ lực nhằm tạo ra sự đồng thuận trong khối ASEAN về một số vấn đề chính trị và an ninh của khu vực - cũng đã vô ích. Tuy nhiên, đúng là nếu ASEAN thực sự muốn đóng vai trò lớn hơn và thực chất hơn vào an ninh khu vực, thì việc có một chính sách ngoại giao chung là quan trọng với tổ chức này.

Ông Lee: Nhiều quốc gia phải đối mặt với tình thế tiến thoái lưỡng nan khi họ bị cuốn vào sự cạnh tranh giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc, và chịu áp lực phải lựa chọn bên. Có sự đồng thuận trong ASEAN về cách ASEAN nên liên hệ với Hoa Kỳ và Trung Quốc không? Hay các quốc gia thành viên ASEAN riêng lẻ sẽ theo đuổi lợi ích và chính sách của riêng họ?

Ông Hiệp: ASEAN và các quốc gia thành viên riêng lẻ sẽ không muốn chọn bên. Nhìn chung, ASEAN và các thành viên cần duy trì lập trường trung lập để có thể hưởng lợi từ mối quan hệ của mình với cả hai cường quốc. Tuy nhiên, nếu sự kình địch Mỹ - Trung ngày càng gay gắt - đến mức buộc các nước trong khu vực phải chọn phe, các nước riêng lẻ sẽ phải làm bất cứ điều gì để bảo vệ lợi ích quốc gia của mình.

Quan điểm của tôi cho rằng, do cạnh tranh Mỹ - Trung nghiêng về lợi ích chiến lược hơn là ý thức hệ, nên họ sẽ không cố gắng - ít nhất là trong vòng 10 đến 20 năm tới - để buộc các nước trong khu vực phải liên kết với nhau như trong thời kỳ Chiến tranh lạnh.

Ông Lee: Làm thế nào để Việt Nam theo đuổi lợi ích của mình khi bị mắc kẹt trong cuộc cạnh tranh giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ? Khi Hà Nội theo đuổi quan hệ đối tác chiến lược với Hoa Kỳ, họ có thể làm gì để trấn an Bắc Kinh rằng họ không xích lại gần Washington một cách “không thể chấp nhận” được?

Ông Hiệp: Giống như các nước ASEAN, Việt Nam cũng muốn duy trì sự cân bằng giữa hai cường quốc. Tuy nhiên, trước sự hung hăng của Trung Quốc ở Biển Đông, Việt Nam đã và đang cố gắng tăng cường quan hệ chiến lược với Mỹ và các cường quốc khác để cân bằng trước sức ép của Trung Quốc. Nhưng Việt Nam đã thận trọng, chỉ làm từ từ và lặng lẽ.

Trung Quốc có thể không cảm thấy thoải mái nếu Việt Nam theo đuổi quan hệ an ninh chặt chẽ hơn với Mỹ và các đồng minh, nhưng chính những hành vi gây hấn của Trung Quốc ở Biển Đông đã đẩy Việt Nam vào hành động này. Trung Quốc nên điều chỉnh cách tiếp cận của mình hoặc có nguy cơ đẩy Việt Nam và các nước trong khu vực về phía Hoa Kỳ nhiều hơn nữa.

Ông Lee: Để chống lại Trung Quốc ở Biển Đông, những quốc gia nào ngoài Mỹ có thể giúp ích cho Việt Nam?

Ông Hiệp: Việt Nam đang đa dạng hóa các quan hệ chiến lược và cố gắng không dựa vào bất kỳ đối tác nào để chống lại Trung Quốc ở Biển Đông. Đến năm 2020, Việt Nam đã thiết lập ba quan hệ đối tác chiến lược toàn diện, 14 quan hệ đối tác chiến lược và 13 quan hệ đối tác toàn diện với các nước, trong đó nhiều nước có lợi ích mạnh mẽ ở Biển Đông. Tất cả chúng đều quan trọng đối với chính sách Biển Đông của Việt Nam theo những cách khác nhau.

Tuy nhiên, về mặt xây dựng năng lực hàng hải và đẩy lùi sự xâm lược của Trung Quốc ở Biển Đông, thì Nhật Bản, Ấn Độ, Úc, Anh, Pháp và Đức... dường như quan trọng đối với Việt Nam hơn các đối tác khác.

Ông Lee: Ngoài Biển Đông, đâu là những thách thức chính đối với an ninh quốc gia của Việt Nam? Những nguyên nhân chính của căng thẳng với các nước láng giềng là gì? Làm thế nào những căng thẳng này có thể được giải quyết?

Ông Hiệp: Tranh chấp Biển Đông hiện là thách thức an ninh quốc gia nghiêm trọng nhất đối với Việt Nam, do Trung Quốc ngày càng tỏ ra ngang ngược hơn trong 10 năm qua. Quản lý biên giới trên bộ với Trung Quốc, Lào và Campuchia cũng từng là thách thức lớn đối với Việt Nam, nhưng các đường biên giới này đã được phân định nên không còn là vấn đề lớn nữa.

Tuy nhiên, vấn đề biên giới với Campuchia có thể bùng phát trở lại nếu có những thay đổi chính trị đáng kể ở Campuchia, do một số chính trị gia Campuchia khơi dậy “tư tưởng chống Việt Nam” để phục vụ chương trình nghị sự trong nước của họ. Trong những năm gần đây, vấn đề sông Mekong ngày càng nổi lên như một thách thức an ninh đối với Việt Nam.

Ông Lee: Khi Việt Nam mong muốn tăng trưởng và phát triển kinh tế nhanh chóng, thì sự phát triển của nền kinh tế Trung Quốc là một lợi ích hay bất lợi cho Việt Nam?

Ông Hiệp: Sự trỗi dậy kinh tế của Trung Quốc vừa là một lợi ích, vừa là một hạn chế đối với Việt Nam. Giống như nhiều quốc gia khác, Việt Nam được hưởng lợi từ quan hệ thương mại và đầu tư với Trung Quốc. Trung Quốc hiện là đối tác thương mại lớn nhất của Việt Nam, với kim ngạch thương mại hai chiều đạt 133 tỷ USD vào năm 2020. Trung Quốc cũng là nhà đầu tư nước ngoài lớn thứ 7 tại Việt Nam.

Với việc Trung Quốc dự kiến ​​sẽ duy trì tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ trong những năm tới, quan hệ thương mại và đầu tư song phương sẽ tiếp tục được tăng cường. Mối quan hệ kinh tế cùng có lợi như vậy có xu hướng “không khuyến khích” hai bên thực hiện các hành động - có thể làm gián đoạn trao đổi kinh tế của họ.

Tuy nhiên, khi Trung Quốc chuyển sức mạnh kinh tế ngày càng tăng của mình thành sức mạnh quân sự, gã khổng lồ phương Bắc đặt ra một thách thức an ninh ngày càng đáng gờm đối với Việt Nam. Sự bành trướng sức mạnh quân sự của Trung Quốc ở Biển Đông là một ví dụ chính. Việt Nam không còn cách nào khác là phải sống chung với thực tế này, cố gắng duy trì quan hệ kinh tế song phương, trong khi vẫn có thể xung đột với Trung Quốc ở Biển Đông khi cần thiết.

Ông Lee: Sự cạnh tranh giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ có khiến các công ty nước ngoài chuyển hoạt động của họ từ Trung Quốc sang Việt Nam để đa dạng hóa chuỗi cung ứng? Sự cạnh tranh này đã mang lại lợi ích gì cho nền kinh tế Việt Nam?

Ông Hiệp: Nhiều nhà đầu tư đã đa dạng hóa cơ sở sản xuất của họ bên ngoài Trung Quốc trong một thời gian, và sự cạnh tranh ngày càng tăng giữa Mỹ và Trung Quốc chỉ càng làm tăng thêm xu hướng này. Việt Nam được hưởng lợi từ xu hướng này, khi nhiều nhà đầu tư đã quyết định chuyển một phần hoạt động sang Việt Nam do các yếu tố nhất định, chẳng hạn như vị trí địa lý gần Trung Quốc, ổn định chính trị, lực lượng lao động tương đối trẻ và rẻ, cải thiện cơ sở hạ tầng, cũng như các nền tảng kinh tế khá vững chắc và các ưu đãi đầu tư mà chính phủ Việt Nam đưa ra.

Tuy nhiên, Việt Nam cũng phải cạnh tranh với các nước khác, đặc biệt là trong lĩnh vực công nghệ cao. Thách thức đặt ra là Việt Nam phải nhanh chóng nâng cấp cơ sở hạ tầng và lực lượng lao động để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao, và để đối phó với một số hậu quả không mong muốn.

Ông Lee: Làm thế nào để Hoa Kỳ, EU và các nước khác như Nhật Bản và Hàn Quốc có thể tăng cường quan hệ kinh tế với Việt Nam - theo những cách có thể thúc đẩy tăng trưởng của Việt Nam và đa dạng hóa các nguồn vốn, công nghệ và bí quyết?

Ông Hiệp: Việt Nam là một trong những nền kinh tế cởi mở nhất ở châu Á về tỷ lệ thương mại trên GDP (khoảng 200%), chỉ sau Hong Kong và Singapore. Điều này một phần là do Việt Nam từ lâu đã nhấn mạnh chiến lược đa dạng hóa các đối tác kinh tế. Cho đến nay, Hà Nội đã ký kết 17 hiệp định thương mại tự do (FTA) và các hiệp định đầu tư khác nhau, bao gồm cả với Nhật Bản, Hàn Quốc và EU. Gần đây nhất là Hiệp định FTA Việt Nam - Vương quốc Anh được ký kết vào ngày 29 tháng 12 năm 2020.

Những mối quan hệ thương mại và đầu tư quan trọng này đã giúp Việt Nam duy trì một nền kinh tế khá mạnh và giảm sự phụ thuộc kinh tế vào Trung Quốc. Mặc dù sự cởi mở có thể khiến Việt Nam gặp một số lỗ hổng nhất định, cho đến nay chiến lược này đã phát huy tác dụng tốt đối với đất nước.

Ông Lee: Ông đánh giá như thế nào về triển vọng Việt Nam trong việc thực hiện các cải cách chính trị và kinh tế xã hội cần thiết để đạt được các mục tiêu phát triển?

Ông Hiệp: Việt Nam đặt mục tiêu trở thành nền kinh tế có thu nhập trung bình cao vào năm 2030 và là nền kinh tế có thu nhập cao vào năm 2045. Điều này có nghĩa là thời gian 10 năm tới rất quan trọng đối với Việt Nam.

Vẫn còn phải xem ban lãnh đạo mới của Việt Nam sẽ thực hiện các kế hoạch phát triển kinh tế xã hội của đất nước tốt như thế nào, nhưng ít nhất việc đặt ra các mục tiêu đầy tham vọng như vậy - có nghĩa là họ tiếp tục theo đuổi các cải cách kinh tế hơn nữa - để đưa các kế hoạch này thành hiện thực.

Trần Đức

Theo The Diplomat

Kinh tế Tin kinh tế


BÀI CHỌN LỌC

‘Áp lực chọn bên’: Việt Nam và ASEAN sẽ làm gì trong cuộc đối đầu Mỹ - Trung ở Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương?