Di sản kinh tế của Giang Trạch Dân: Tiêu chuẩn kép, những lời hứa suông và vấn đề Đài Loan

Giúp NTDVN sửa lỗi

Trái với những lời ca ngợi của giới truyền thông phương Tây dành cho cựu lãnh đạo Giang Trạch Dân, sự phát triển của Trung Quốc đi kèm một cái giá phải trả to lớn đối với thế giới tự do. Đáp lại sự ngây thơ của phương Tây khi ủng hộ Trung Quốc gia nhập WTO là những lời hứa suông, tiêu chuẩn kép, tính dân chủ bị xói mòn và những quy tắc hay chuẩn mực bị vi phạm. Ông Giang cũng là người đã phát triển mạnh chiến lược kiểm soát Đài Loan thông qua sự phụ thuộc về kinh tế.

Ngay sau cái chết của cựu lãnh đạo Đảng Cộng sản Trung Quốc Giang Trạch Dân, nhiều hãng truyền thông phương Tây đã bắt đầu ca ngợi những nỗ lực của nhà lãnh đạo này trong việc mở cửa nền kinh tế Trung Quốc cho thế giới bên ngoài và tạo ra một “thế lực kinh tế toàn cầu”.

Họ trích dẫn sự tăng trưởng kinh tế nhanh chóng trong suốt một thập kỷ lãnh đạo của ông trong thời kỳ hậu Thiên An Môn như bằng chứng về thành tích của ông. Tuy nhiên, người ta nói rất ít về việc Trung Quốc tăng trưởng nhanh như vũ bão đã gây thiệt hại như thế nào cho các doanh nghiệp và người lao động phương Tây sau khi nước này được gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) vào năm 2001.

Theo Ngân hàng Thế giới, nền kinh tế Trung Quốc đã tăng trưởng hơn 1.200 % (tính theo đồng USD ngày nay) kể từ khi gia nhập WTO, đưa nước này trở thành nền kinh tế lớn thứ hai thế giới, nhà xuất khẩu lớn nhất và là cường quốc công nghiệp hàng đầu.

Ông Giang, nhà lãnh đạo cao nhất của Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) từ năm 1993 đến năm 2003, thường xuyên khoe khoang về vai trò của mình trong việc đưa đất nước Trung Quốc gia nhập WTO.

Cái giá phải trả

Tuy nhiên, sự phát triển của quan hệ thương mại với Trung Quốc có tác động tàn phá đặc biệt đối với người lao động Mỹ. Bắt đầu từ năm 2009–2010, sản lượng sản xuất của Trung Quốc đã vượt qua Mỹ và khoảng cách kể từ đó thậm chí còn tăng trưởng lớn hơn, khiến Mỹ mất đi hàng triệu việc làm trong lĩnh vực sản xuất.

Ví dụ, Viện Chính sách Kinh tế (EPI) ước tính rằng sự gia tăng thâm hụt thương mại của Mỹ với Trung Quốc đã loại bỏ 3,7 triệu việc làm của Mỹ từ năm 2001 đến 2018.

Mặc dù một số người có thể coi ông Giang là một anh hùng, nhưng “ông ấy là điều không tốt đối với nước Mỹ hay phần còn lại của thế giới tự do”, theo ông Clyde Prestowitz, cựu cố vấn Tổng thống, người đã dẫn đầu phái đoàn thương mại đầu tiên của Mỹ đến Bắc Kinh vào năm 1982.

Di sản kinh tế của Giang Trạch Dân: tiêu chuẩn kép, những lời hứa suông và vấn đề Đài Loan
Nhà lãnh đạo Trung Quốc Tập Cận Bình (trái) và người tiền nhiệm Giang Trạch Dân (phải) tham dự bế mạc Đại hội Đảng Cộng sản lần thứ 19 tại Đại lễ đường Nhân dân ở Bắc Kinh, Trung Quốc, vào ngày 24/10/2017. (Ảnh: Wang Zhao/AFP qua Getty Images )

Ông Giang “đã đàm phán một cách khôn ngoan để đưa Trung Quốc vào WTO …”, ông Prestowitz nói với The Epoch Times.

“Thành tựu to lớn của ông ấy là sử dụng cuộc thương thuyết về WTO để thuyết phục phương Tây rằng Trung Quốc đang đi theo con đường thương mại tự do, tư bản chủ nghĩa, trong khi trên thực tế, biến WTO trở thành một công cụ trong chính sách công nghiệp do nhà nước điều hành của Trung Quốc”.

Ông Bill Clinton, lúc đó đang là Tổng thống Mỹ, đã làm trung gian cho việc Trung Quốc gia nhập WTO vào năm 2001. Ông Clinton nói với công chúng Mỹ rằng động thái này có nghĩa là chế độ sẽ “nhập khẩu một trong những giá trị được trân trọng nhất của nền dân chủ, tự do kinh tế”, điều sẽ “có ảnh hưởng sâu sắc đến nhân quyền và tự do” ở Trung Quốc.

Nhưng mối quan hệ nồng ấm giữa Mỹ và Trung Quốc đã bắt đầu trước thời chính quyền Clinton. Tổng thống Richard Nixon là Tổng thống đương nhiệm đầu tiên của Mỹ đến thăm Trung Quốc đại lục vào năm 1972. Các chính quyền kế tiếp đã khuyến khích quan hệ thương mại của Mỹ với Trung Quốc, với hy vọng rằng toàn cầu hóa sẽ mang lại những cải cách dân chủ ở Trung Quốc.

Tuy nhiên, Trung Quốc đã không thực hiện các nghĩa vụ của mình về thương mại công bằng trong hai thập kỷ qua—và có rất ít mong muốn làm như vậy.

Sự trỗi dậy của Trung Quốc “là thứ phải trả giá bằng tính dân chủ, an ninh và lẽ thường của phương Tây”, theo ông Keith Krach, cựu Thứ trưởng Ngoại giao và Chủ tịch Viện Ngoại giao Công nghệ Krach.

“Tất cả chúng ta thường nhắm mắt làm ngơ và tránh nói thẳng về sự thiếu minh bạch, có đi có lại và các tiêu chuẩn môi trường của họ; các vi phạm nhân quyền và việc sử dụng lao động nô lệ của họ; và vô số vi phạm của họ đối với các thỏa thuận từ trước cũng như luật pháp quốc tế”, ông nói với The Epoch Times.

Nhiều nhà quan sát đồng ý với ông Krach rằng Bắc Kinh không chỉ mắc tội vì đã ngẫu nhiên vi phạm các điều khoản thành viên, mà còn vì có thái độ chung đối với thương mại và lao động đi ngược lại các quy tắc và nguyên tắc thành lập của WTO.

Di sản kinh tế của Giang Trạch Dân: tiêu chuẩn kép, những lời hứa suông và vấn đề Đài Loan
Tổng thống Mỹ Bill Clinton (thứ 2 từ phải sang), Đệ nhất phu nhân Hillary Clinton (giữa), nhà lãnh đạo Trung Quốc Giang Trạch Dân (phải) và vợ của ông Giang là bà Vương Dã Bình (trái) chụp ảnh vào ngày 29/10/1997 khi ông Giang đến Tòa Bạch Ốc ở Washington D.C., Mỹ, cho một bữa tối cấp nhà nước. (Ảnh: Luke Frazza/AFP qua Getty Images)

Những lời hứa suông

Năm ngoái, Tổ chức Đổi mới và Công nghệ Thông tin (ITIF) đã công bố một bài báo có tiêu đề “Những lời hứa suông II”, chỉ ra khoảng cách giữa các cam kết WTO của Trung Quốc và các hành vi của nước này trong hai thập kỷ qua.

Ví dụ, Trung Quốc cam kết với các thành viên WTO rằng chính quyền của họ sẽ không ảnh hưởng trực tiếp hay gián tiếp đến các quyết định kinh doanh của các doanh nghiệp nhà nước (DNNN). Đó không phải là những gì đã diễn ra, theo bài báo. Tất cả các DNNN hoặc doanh nghiệp tư nhân của Trung Quốc, theo luật pháp trong nước, đều có một chi bộ đảng cộng sản Trung Quốc có ảnh hưởng đối với việc quản lý công ty.

Hơn nữa, sự tăng trưởng của khu vực DNNN cả về giá trị thị trường và tổng số lượng là một ví dụ rõ ràng về việc Trung Quốc vi phạm các quy tắc của WTO, theo ITIF.

Các lĩnh vực vi phạm các quy tắc của WTO khác bao gồm các khoản trợ cấp khổng lồ của chính phủ và các yêu cầu liên doanh và chuyển giao công nghệ bắt buộc.

“Do sự ngây thơ của chúng ta, chúng ta đã trao đi tài sản trí tuệ vô giá bằng cách cho phép truy cập vào các tổ chức nghiên cứu được đánh giá cao nhất của chúng ta. Chúng ta cũng cung cấp cho họ hệ thống quy trình kỹ thuật tinh vi cho một số sản phẩm và công nghệ có giá trị nhất của chúng ta bằng cách xây dựng các nhà máy hiện đại nhất ở Trung Quốc”, ông Krach giải thích.

Theo thời gian, Mỹ trở nên phụ thuộc vào Trung Quốc “bằng cách thuê ngoài hoạt động sản xuất, điều này cho phép họ cướp bóc các công ty vừa và nhỏ ở vùng công nghiệp Trung Tây bằng vũ khí sản xuất hàng loạt của họ”, ông nói thêm.

Các tập đoàn Trung Quốc đã công khai chiếm đoạt tài sản trí tuệ của các đối thủ cạnh tranh nước ngoài, một hành vi chỉ trở nên tồi tệ hơn khi đối mặt với sự phản đối kịch liệt. Theo ITIF, trong mọi lĩnh vực, từ công nghệ sinh học đến hàng không vũ trụ đến viễn thông, Trung Quốc đều thực hiện hành vi trộm cắp tài sản trí tuệ do nhà nước hậu thuẫn.

Hơn nữa, hành vi trộm cắp trên mạng, lao động cưỡng bức và nhiều chính sách công nghiệp khác của Trung Quốc đã khiến sân chơi trở nên bất lợi đối với các doanh nghiệp Mỹ và châu Âu.

Di sản kinh tế của Giang Trạch Dân: tiêu chuẩn kép, những lời hứa suông và vấn đề Đài Loan
Các thành viên thường trực của Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc họp tại khách sạn vào ngày 07/09/2000 tại New York, Mỹ. Từ phải sang là: Thủ tướng Anh Tony Blair, Tổng thống Mỹ Bill Clinton, nhà lãnh đạo Trung Quốc Giang Trạch Dân, Tổng thống Pháp Jacques Chirac và Tổng thống Nga Vladimir Putin. (Ảnh: Georges Gobet/AFP qua Getty Images)

Tiêu chuẩn kép

Trong khi các tập đoàn Trung Quốc chỉ phải đối mặt với các rào cản thấp khi muốn kinh doanh ở Mỹ và châu Âu, thì các công ty phương Tây không được chào đón đặc biệt ở Trung Quốc do sự bảo hộ không công bằng và thiên vị tài chính của nước này đối với các DNNN.

Theo các nhà quan sát, tại Trung Quốc, các công ty trong nước có khả năng tiếp cận vốn và nguyên vật liệu tốt hơn. Các biện pháp đối xử phân biệt cũng bao gồm sự bảo vệ của chính phủ đối với các tranh chấp pháp lý, các khoản vay ngân hàng và trợ cấp. Kết quả là các công ty nước ngoài hoạt động tại Trung Quốc gặp bất lợi về cạnh tranh.

“Trên hết, chúng ta cho phép họ tham gia vào thị trường vốn chi phí thấp của chúng ta mà không cần phải tuân thủ các thông lệ kế toán tiêu chuẩn hoặc khả năng bị kiểm toán, điều đã giúp tài trợ cho nhà nước giám sát và hoạt động xây dựng quân đội của họ", ông nói thêm.

Trong hơn một thập kỷ, các công ty Trung Quốc đã tận dụng lợi thế của thị trường vốn Mỹ trong khi hoạt động theo các tiêu chuẩn lỏng lẻo.

Bắc Kinh từ chối cho phép thanh tra kiểm toán các công ty niêm yết công khai tại Mỹ, viện dẫn luật bí mật nhà nước. Do đó, các công ty Trung Quốc đã không tuân theo các yêu cầu công bố thông tin giống như các đối tác Mỹ, tạo ra rủi ro đáng kể cho các nhà đầu tư.

Chính phủ Mỹ đang tiến hành các bước đi trong hai năm qua để tăng cường giám sát các công ty Trung Quốc niêm yết tại Mỹ.

Đài Loan và Trung Quốc

Trong nhiệm kỳ của mình, ông Giang đã ảnh hưởng đáng kể đến mối quan hệ kinh tế và chính trị của Trung Quốc với Đài Loan, thứ vẫn tiếp tục cho đến ngày nay.

Về mặt kinh tế, thương mại giữa Trung Quốc và Đài Loan đã tăng trưởng với tốc độ chưa từng có trong nhiệm kỳ của ông.

“Khi nền kinh tế Trung Quốc mở cửa, các doanh nghiệp Đài Loan đã tràn vào ban đầu cùng với hàng hóa thương mại rẻ hơn”, ông Rupert Hammond-Chambers, chủ tịch Hội đồng Doanh nghiệp Mỹ-Đài Loan, nói với The Epoch Times. Khi nền kinh tế Trung Quốc phát triển, các sản phẩm giá rẻ dần được thay thế bằng các sản phẩm công nghệ tinh vi hơn từ Trung Quốc, ông nói thêm.

Theo ông Hammond-Chambers, đây là một phần trong chiến lược kiểm soát hòn đảo tự trị thông qua sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế và ông Giang đã phát triển nó một cách đầy đủ hơn.

Và trên mặt trận chính trị, sự nổi tiếng của tổng thống Đài Loan khi đó là Lý Đăng huy đã giảm mạnh ở Bắc Kinh trong nhiệm kỳ đầu tiên của ông Giang.

Một cuộc khủng hoảng nổ ra giữa Trung Quốc và Đài Loan khi ông Lý đến Mỹ để tham dự buổi họp lớp tại Đại học Cornell. Quyết định cấp thị thực Mỹ cho ông Lý đã đảo ngược hơn 25 năm tiền lệ ngoại giao của Mỹ.

Điều này gây ra cuộc khủng hoảng tên lửa sau đó vào năm 1995 và 1996, ông Rupert lưu ý.

“Mỹ đưa một số nhóm chiến đấu vào khu vực Đài Loan và quân đội Trung Quốc đã rút lui”, ông nói,

Vụ việc được coi là điểm khởi đầu cho quá trình hiện đại hóa quân đội Trung Quốc, một nỗ lực nhằm đảm bảo rằng Quân đội Giải phóng Nhân dân không rơi vào tình thế tương tự trong tương lai.

Theo ông Hammond-Chambers, quan hệ Trung Quốc-Đài Loan đã không thay đổi đáng kể trong 25 năm kể từ vụ việc đó.

“Đó là một vấn đề của hai câu chuyện: Hội tụ kinh tế đi cùng với sự gia tăng căng thẳng chính trị và quân sự liên quan đến chủ quyền của Đài Loan. Sự mâu thuẫn trong hai tình huống vẫn đúng cho đến ngày nay”.

Bảo Nguyên

Theo Emel Akan - The Epoch Times



BÀI CHỌN LỌC

Di sản kinh tế của Giang Trạch Dân: Tiêu chuẩn kép, những lời hứa suông và vấn đề Đài Loan