Tự chủ cơ thể - điều cốt lõi của tự do cá nhân

Giúp NTDVN sửa lỗi

Quyền tự chủ cơ thể được định nghĩa là quyền tự quản đối với cơ thể của bản thân, và đó là một quyền cơ bản của con người. Liệu điều cốt lõi của các quyền tự do cá nhân của chúng ta có được duy trì trước mục đích làm dịu nỗi sợ hãi của công chúng về COVID-19?...

Tỷ phú công nghệ Bill Gates, cũng là một nhà từ thiện, đã khuyến nghị duy trì giãn cách xã hội cho đến khi vaccine COVID-19 ra đời trong vòng 16 đến 18 tháng tới. Nếu chính phủ các nước làm theo lời khuyên của “bậc thầy về đại dịch” này, thì những người không lựa chọn tiêm chủng sẽ ra sao, và chính quyền sẽ đối mặt với họ như thế nào?

Sở hữu nguồn tài lực tỷ đô sẵn sàng chi cho các hoạt động “từ thiện”, cộng thêm mối quan tâm dành cho đại dịch COVID-19, tôi e rằng quyền cơ bản về tự chủ cơ thể của chúng ta có thể bị thách thức nghiêm trọng - nhất là khi nỗi sợ hãi của công chúng đã phóng đại theo cấp số nhân trong thời gian diễn ra đại dịch.

Trong giai đoạn đầu của đại dịch, tỷ lệ tử vong vượt mức dự tính đã giải thích cho nhiều sắc lệnh khẩn cấp nhằm ứng phó với dịch bệnh. Từ các mô hình thống kê ban đầu, người ta dự đoán sẽ có hơn 2 triệu trường hợp tử vong chỉ riêng ở Hoa Kỳ, nhưng sau đó là 200.000 và gần đây là dưới 100.000 ca.

Tiến sĩ Anthony Fauci, Viện trưởng Viện Dị ứng và Bệnh Truyền nhiễm Quốc gia Hoa Kỳ (NIAID) cho biết: “Dữ liệu nhiều khi không giống như tính toán của bất kỳ mô hình nào... Mô hình hóa dữ liệu là một môn khoa học không hoàn hảo và khi bạn có được dữ liệu thực tế, bạn sẽ dựa vào dữ liệu đó nhiều hơn dữ liệu mô hình.”

Ông cho biết thêm: các nhà lãnh đạo các nước nhận thức được điều này, nhưng liệu chính phủ các nước có sửa đổi kế hoạch khi họ có dữ liệu thực sự không?

Biến động ở tỷ lệ tử vong

Tỷ lệ tử vong do COVID-19 hiện tại đang dao động ở mức khoảng 0,7% - mặc dù con số này có thể lớn hơn do tỷ lệ này được tính toán dựa trên báo cáo về tỷ lệ lây nhiễm ở Trung Quốc. Tuy nhiên với tỷ lệ tử vong như thế, chủng virus này nguy hiểm đến tính mạng cao gấp 7 lần so với virus gây dịch cúm mùa hằng năm. Tỷ lệ tử vong đã giảm xuống 1% so với mức 4% cao chót vót, và sẽ còn tiếp tục giảm nữa khi chúng ta hiểu biết nhiều hơn về chủng virus này.

Cụ thể hơn, vấn đề đầu tiên là làm thế nào tính toán được chính xác số ca tử vong do virus Vũ Hán, khi tử vong nguyên phát và thứ phát đều được tính là do COVID-19 ở mọi quốc gia trên thế giới. Vấn đề thứ hai là tỷ lệ tử vong được ước tính quá cao do tổng số ca nhiễm được ước tính quá thấp - đặc biệt là khi số lượng lớn các trường hợp bệnh không triệu chứng bị bỏ qua. Báo cáo tỷ lệ tử vong COVID-19 có một đặc điểm là gộp tất cả các trường hợp tử vong do virus và số người tử vong có liên quan đến virus mà không phân biệt rõ.

Tại Hoa Kỳ, khi đề cập đến các trường hợp tử vong do virus Vũ Hán, Tiến sĩ Deborah Birx - điều phối viên phản ứng chống dịch Coronavirus của Nhà Trắng đã nói: “nếu một người nào đó tử vong có liên quan tới COVID-19, thì chúng tôi tính đó là một trường hợp tử vong do COVID-19”.

Tương tự, giáo sư Walter Ricciardi, cố vấn khoa học của Bộ trưởng Y tế Ý, đã tuyên bố về những trường hợp tử vong do COVID-19 của Ý như sau: “Tất cả những người tử vong ở bệnh viện có liên quan tới Coronavirus đều được coi là tử vong do Coronavirus”.

Nói cách khác, với cách tính toán hào phóng này, thì dù bệnh nhân tử vong là do các bệnh khác và COVID-19 chỉ là yếu tố ngẫu nhiên, thì người đó vẫn được tính là tử vong với nguyên nhân chính là virus Vũ Hán.

Điều này cũng thể hiện trong bản cập nhật mới của hướng dẫn mã ICD-10 (Hệ thống phân loại bệnh tật quốc tế). Theo đó, mã của COVID-19 là U07.1 và không có sự phân biệt giữa các trường hợp được xác nhận và nghi ngờ nhiễm virus. Kể cả trong trường hợp không chắc chắn, ICD-10 nêu rõ: “Nếu giấy chứng tử dùng thuật ngữ ‘có khả năng nhiễm COVID-19’ hoặc ‘có thể nhiễm COVID-19’, thì mã U07.1 sẽ được gán cho các thuật ngữ này”.

Tại Đức, một nghiên cứu gần đây đã được tiến hành ở quận Heisenberg. Nghiên cứu đã chọn mẫu đại diện cho khu vực của 250.000 nhân khẩu. Theo kết quả ban đầu, phần lớn dân số vùng này dương tính với COVID-19 nhưng hoàn toàn không xuất hiện triệu chứng. Đáng chú ý là, khi tính gộp nhóm lớn này vào tổng số ca nhiễm, thì tỷ lệ tử vong trong nghiên cứu giảm xuống còn 0,37%.

Quay trở lại Mỹ, một nghiên cứu khác được thực hiện ở quận Los Angeles và các nhà khoa học đã chẩn đoán nhiễm COVID-19 dựa trên xét nghiệm kháng thể. Kết quả cho thấy số trường hợp nhiễm COVID-19 còn lớn hơn nhiều. Với yếu tố này trong các phát hiện mới của nghiên cứu, tỷ lệ tử vong COVID-19 của hạt Los Angeles sẽ giảm xuống mức thấp nhất là 0,1%.

Các nghiên cứu khác nhau từ khắp nơi trên thế giới đã xem xét tỷ lệ người nhiễm COVID-19 không có triệu chứng ở các nhóm đối tượng khác nhau. Lúc đầu, tỷ lệ này chỉ rơi vào khoảng 5%, nhưng sau đó lên đến 80% ở những nghiên cứu khác. Đây là những trường hợp dương tính với COVID-19 nhưng hiếm khi được tính vì họ không có lý do gì để tìm đến sự chăm sóc của hệ thống y tế. Khi có nhiều dữ liệu hơn và nhiều mẫu đại diện dân số hơn đã được xét nghiệm, chúng tôi sẽ có thể tìm thấy tỷ lệ lây nhiễm thực sự ở những vùng có nguy cơ cao hơn, điều này sẽ giúp làm giảm thêm tỷ lệ tử vong chung.

Tiêm chủng và tự chủ cơ thể

Khi thế giới phải tạm dừng mọi hoạt động trong đại dịch, và có nguy cơ đối mặt với gián đoạn kinh tế và xã hội nghiêm trọng, thì lời kêu gọi tiêm chủng bắt buộc chắc chắn sẽ “vang lên” ở nhiều nơi. Điều này đặt ra câu hỏi là: chính phủ các quốc gia sẽ làm gì khi tỷ lệ tử vong COVID-19 giảm còn gần xấp xỉ với tỷ lệ tử vong do bệnh cúm mùa nghiêm trọng hàng năm?

Tôi không phải là người phản đối sử dụng vaccine (hay là người theo phong trào anti-vaccine như mọi người vẫn gọi). Tôi vẫn sẽ thực hiện tiêm chủng ngừa COVID-19 nếu tôi tìm được bằng chứng chắc chắn rằng vaccine mang lại lợi ích miễn nhiễm virus vượt xa nguy cơ gặp phải bất kỳ phản ứng bất lợi nguy hiểm nào.

Vaccine có thể là một công cụ hữu ích trong cuộc chiến không hồi kết chống lại bệnh truyền nhiễm và khi được sử dụng thích hợp, nó có thể giúp nâng cao sức khỏe của cộng đồng lẫn cá nhân. Mặc dù các chương trình tiêm chủng đã được công nhận tự mình có thể làm giảm tỷ lệ mắc của nhiều bệnh truyền nhiễm phổ biến trong thế kỷ 20, nhưng hầu hết các bệnh nhiễm trùng phòng ngừa bằng tiêm chủng đã giảm tới 90% tỷ lệ tử vong vào thập niên 40 - thời gian trước khi Hoa Kỳ bắt đầu chương trình tiêm chủng mở rộng.

Việc cung cấp một cách rộng rãi hệ thống nước sạch, nước máy trong nhà và giữ gìn vệ sinh tốt thực sự là những nhà vô địch của y học trong thế kỷ 20. Sau đó một vài thập kỷ, vaccine mới góp phần giúp loại bỏ nhiều loại vi khuẩn gây bệnh cho nhân loại. Tuy nhiên, giống như tất cả các biện pháp can thiệp y tế, các vấn đề sẽ khởi động khi bạn cố gắng cưỡng ép mô hình “nhân bản vô tính” vào sự đa dạng và tự nhiên của nhân loại.

Một số người đã trở lên lo lắng trước viễn cảnh phổ biến là có những cá nhân vô trách nhiệm gây nguy hiểm cho sức khỏe cộng đồng. Và bằng cách dùng quyền tự chủ cơ thể, một quyền cơ bản của con người, họ đã từ chối tiêm ngừa vaccine. Đó là một lập luận không hợp lý bởi vì nếu vaccine có tác dụng thì người được tiêm vaccine có thể được bảo vệ khỏi nguy cơ bị nhiễm. Ngược lại, nếu người đó không được bảo vệ, thì rõ ràng vaccine không có tác dụng, và điều này ủng hộ lập trường của những người từ chối tiêm vaccine.

Miễn dịch cộng đồng là một khái niệm dịch tễ học mô tả trạng thái khi một quần thể đủ miễn nhiễm với một căn bệnh truyền nhiễm nào đó, do đó tình trạng lây nhiễm sẽ không còn lan được trong nhóm này. Tỷ lệ phần trăm dân số cần được bảo vệ thông qua tiêm chủng hoặc miễn dịch tự nhiên sẽ thay đổi tùy thuộc vào tốc độ sinh sản của vi sinh vật.

Sởi, một trong những bệnh lây nhiễm nhất được biết đến, có hệ số lây nhiễm cơ bản rất cao và sẽ cần miễn dịch đến 93% dân số. Trong khi, nếu hệ số này của COVID-19 thấp hơn nhiều thì miễn dịch cộng đồng có thể được thiết lập chỉ với 70% dân số. Nói cách khác, không cần đến tiêm chủng toàn dân để dựng được tấm khiên phòng hộ cho nhân loại trước đại dịch.

Tự chủ về cơ thể là quyền cơ bản nhất của quyền con người mà chúng ta được ban tặng khi sinh ra; và cá nhân (hoặc cha mẹ nếu trẻ vẫn còn vị thành niên) có thể tự lựa chọn trong mọi trường hợp liên quan đến điều trị hoặc chỉnh sửa cơ thể. Đã đến lúc ngừng tranh luận ủng hộ hoặc chống đối vaccine - Tự chủ cơ thể là một vấn đề khác.

Từ chối tiêm chủng chỉ là một khía cạnh nhỏ của sự từ chối lớn hơn - sự từ chối các phương pháp điều trị y tế. Trong suốt lịch sử y khoa, bạn có thể tìm thấy vô số ví dụ về các phương pháp điều trị trong quá khứ đáp ứng “tiêu chuẩn chăm sóc” tại thời điểm đó, nhưng được phát hiện lại là có hại về sau. Dựa trên những ghi chép của lịch sử, không phải là vô lý khi hoài nghi bất kỳ phương pháp điều trị mới nào. Tuy nhiên, điều trị bắt buộc tước đi của bạn cơ hội lựa chọn đó.

Armen Nikogosian, M.D., được chứng nhận bởi hội đồng quản trị khoa nội và là thành viên của Viện Y học Southwest Functional Medicine tại Nevada (Hoa Kỳ). Ông tập trung vào việc điều trị các tình trạng y tế phức tạp, đặc biệt chú trọng đến rối loạn tự kỷ ở trẻ em, cũng như các vấn đề về đường ruột mãn tính và tình trạng tự miễn ở người lớn.

Thiên Hoa - Thiện Đức
- Theo Epoch Times.



BÀI CHỌN LỌC

Tự chủ cơ thể - điều cốt lõi của tự do cá nhân