Yếu tố nguy cơ đáng ngạc nhiên của bệnh tim mạch vành

Giúp NTDVN sửa lỗi

Khoa học đã chứng minh rằng không phải hút thuốc, uống rượu hay huyết áp cao, mà căng thẳng mới là yếu tố nguy cơ cao nhất dẫn đến bệnh tim mạch vành.

Tóm tắt nội dung chính:

  • Đã bao nhiêu lần chúng ta nghe cảnh báo "hút thuốc, uống rượu và thừa cân" liên quan đến bệnh tim? Tuy nhiên, một trong những nghiên cứu tồn tại lâu nhất lại mâu thuẫn với điều này.
  • Một yếu tố nguy cơ lớn hơn nhiều là căng thẳng - đặc biệt là căng thẳng được tìm thấy trong một loại tính cách cụ thể, xử lý sự tức giận theo một cách cụ thể.
  • Dự án Framingham là một nghiên cứu dịch tễ học tinh túy về dân số của hơn 14.000 người qua 3 thế hệ. Và một lời khuyên quan trọng về lối sống được ẩn trong bản phân tích năm 1980 của nhóm thuần tập cuối cùng.
  • Bạn có cảm thấy tội lỗi nếu sử dụng thời gian rảnh rỗi để thư giãn? Hãy tự hỏi bản thân những câu hỏi được định danh “Loại A” này và kiểm tra xem bạn có xử lý căng thẳng theo những cách tương tự hay không. Quy trình quản lý căng thẳng này là nguyên nhân chính gây ra bệnh tim mạch vành.
  • Về mặt thể chất, tức giận dẫn đến giải phóng catecholamin, gây một loạt tác động lên tim mạch. Trong “chế độ chiến đấu”, gan tổng hợp chất béo trung tính để tăng cường năng lượng, do đó góp phần làm rối loạn lipid.
  • Nếu bạn thuộc loại A, cũng đừng lo. Đây là những mẫu hành vi mà chúng ta có thể đào tạo và thay đổi, và bắt đầu từ những thay đổi nhỏ.

Các yếu tố nguy cơ của bệnh mạch vành

Theo Trung tâm Thống kê Y tế Quốc gia Hoa Kỳ, bệnh tim là nguyên nhân gây tử vong hàng đầu ở Hoa Kỳ. Theo báo cáo của Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh (CDC) thì có 1/5 người Mỹ tử vong do bệnh tim vào năm 2020. Trên thế giới, bệnh tim mạch cũng là nguyên nhân gây tử vong hàng đầu.

Bệnh tim mạch vành (CHD) là loại bệnh tim phổ biến nhất, gây tử vong gần 383.000 người Mỹ vào năm 2020. Các nhà khoa học và cộng đồng y tế đang đầu tư nhiều thời gian và tiền bạc vào việc nghiên cứu điều gì giữ cho trái tim khỏe mạnh và điều gì có thể khiến nó ngừng đập.

Nhiều yếu tố nguy cơ đã được đề xuất đối với CHD. Trong số này, huyết áp cao, cholesterol trong máu cao và hút thuốc được cho là những nguyên nhân hàng đầu. Các bác sĩ lặp đi lặp lại những cảnh báo rằng nếu mọi người giảm mức cholesterol xấu bằng cách ăn thức ăn lành mạnh và trở nên năng động thì sẽ giảm nguy cơ mắc CHD. Mọi người cần bỏ những thói quen nguy hiểm làm tăng huyết áp như: hút thuốc, thừa cân và uống quá nhiều rượu.

Ngày nay, khoa học đã chứng minh được rằng hút thuốc có hại cho sức khỏe. Bởi vậy, chúng ta thường cố thuyết phục người thân rằng một ngày nào đó hút thuốc có thể cướp đi mạng sống của họ. Có thể bạn đang giúp họ tránh khỏi những lá phổi đen đáng sợ mà chúng ta vẫn thấy trên các bao thuốc lá. Tuy nhiên, hãy khoan. Chúng ta đang nói về bệnh tim.

Hút thuốc có hại cho sức khỏe của bạn và thường gây tử vong vì những bệnh liên quan đến phổi. Nhưng một trong những nghiên cứu lâu đời nhất về bệnh tim lại mâu thuẫn với những gì chúng ta nghĩ về mối quan hệ giữa hút thuốc và CHD. Trong nghiên cứu, những ca CHD ở những người hút thuốc ít hơn những người không hút thuốc.

Một yếu tố nguy cơ lớn hơn nhiều không phải là hút thuốc, mà là căng thẳng - loại căng thẳng được tìm thấy trong một loại tính cách cụ thể. Và khi không được kiểm soát, biểu hiện của nó có thể ảnh hưởng tồi tệ đến sức khỏe tim mạch hơn so với hút thuốc.

Theo bác sĩ, tiến sĩ y khoa Yuhong Dong, có nhiều cơ chế sinh học và năng lượng xảy ra đồng thời trong CHD, nhưng biểu hiện giận dữ của nhân cách Loại A tạo nên dấu ấn lớn hơn trong trái tim và tâm trí của chúng ta.

Yếu tố nguy cơ đáng ngạc nhiên của bệnh tim mạch vành (CHD)

Dự án Framingham, bắt đầu vào năm 1948, là nghiên cứu dịch tễ học tinh túy và lớn nhất về dân số của hơn 14.000 người qua 3 thế hệ. Cuối cùng, dự án đã tìm thấy bằng chứng, từ đó đưa ra các cảnh báo mà chúng ta vẫn thường được nghe khi đi khám bác sĩ: huyết áp cao và cholesterol trong máu cao là những yếu tố nguy cơ chính đối với CHD. Tuy nhiên, Nghiên cứu Tim Framingham nổi tiếng đã tiết lộ cho chúng ta một phát hiện rất khác.

Họ tìm thấy ít bằng chứng cho thấy hút thuốc là một yếu tố nguy cơ của bệnh tim mạch vành (CHD).

Tiến sĩ Dong nói: “Trong những nghiên cứu và phân tích quy mô lớn này, người hút thuốc và người không hút thuốc không có sự khác biệt nào cả. CHD là sản phẩm của nhiều yếu tố nguy cơ cùng xảy ra. Không còn nghi ngờ gì nữa, hút thuốc lá là một trong nhiều yếu tố nguy cơ, nhưng tác động của nó đã được phóng đại”.

Tiến sĩ Dong cho biết, hiện nay bằng chứng cho thấy các yếu tố tâm lý xã hội, bao gồm cả việc có tính cách căng thẳng, hoặc tính cách Loại A, có nguy cơ đối với bệnh tim cao hơn so với hút thuốc. Đặc biệt là cách tính cách Loại A đối phó với căng thẳng. Nếu Loại A thường xuyên đối phó với căng thẳng theo những cách tức giận, hung hăng và thù địch, tỷ lệ mắc bệnh CHD của họ sẽ tăng lên theo cấp số nhân.

Nếu Loại A thường xuyên đối phó với căng thẳng theo những cách tức giận, hung hăng và thù địch, tỷ lệ mắc bệnh CHD của họ sẽ tăng lên theo cấp số nhân. (Ảnh pexels)

Bạn có những đặc điểm của tính cách loại A không?

Bạn có cảm thấy tội lỗi nếu sử dụng thời gian rảnh rỗi để thư giãn? Bạn có khao khát chiến thắng trong các trò chơi và thể thao không? Bạn có ăn uống, đi lại và di chuyển nhanh không? Bạn có cố gắng làm nhiều việc cùng một lúc không? Những người thân yêu và đồng nghiệp của bạn đã nhiều lần nói với bạn rằng bạn cần bình tĩnh, hoặc từ tốn chưa?

Bạn có thể có tính cách “Loại A” hoặc có kiểu hành vi Loại A (TABP). Khi bạn hoàn thành công việc và mọi người đề cao sự chăm chỉ của bạn, sức khỏe của bạn có thể bị ảnh hưởng nếu bạn quá coi trọng thành tích cao, khả năng cạnh tranh và sự thiếu kiên nhẫn của mình. Một số người có thể đảm nhận nhiều dự án và chịu được áp lực lớn, nhưng hầu hết những người Loại A thì không thể.

Kể từ những năm đầu của nền văn minh, các nhà triết học, tâm lý học và khoa học xã hội đã cố gắng tìm hiểu tâm lý con người và sắp xếp con người thành từng nhóm nhỏ. Mục đích là lý giải được cách xử lý vấn đề của từng nhóm, từ đó có thể tạo ra một phương pháp điều trị để giúp họ có được cuộc sống hạnh phúc, khỏe mạnh.

Các bác sĩ đầu tiên được biết đến tạo ra mối liên hệ giữa tính cách và bệnh tật là những người theo chủ nghĩa phục hưng La Mã. Họ là những người đã cảnh báo chúng ta về mặt trái của các loại tính cách nóng nảy, lạc quan, lạnh lùng và u sầu, được biết đến trong “Bốn khuôn phép của nhân cách”.

Bốn phẩm chất này dựa trên lý thuyết Hy Lạp và các yếu tố đất, không khí, lửa và nước vẫn được sử dụng trong lý thuyết hiện đại để mô tả khuynh hướng bệnh tật. Như bạn có thể đã đoán, những tính cách “choleric” bốc lửa, tràn đầy năng lượng và đam mê được gọi là Loại A ngày nay - với chỉ định không may: Rất có thể mắc bệnh tim.

Nhưng mô tả đã trở nên nhiều sắc thái hơn khi khoa học xã hội phát triển. Một nghiên cứu năm 2018 từ Đại học Northwestern đã xác định bốn kiểu tính cách được xác định lại: “trung bình”, “dè dặt”, “tự cho mình là trung tâm” và “hình mẫu”. Từ những cái tên đó, Loại A có thể ẩn mình trong bất kỳ loại nhân cách mới nào.

Northwestern dựa trên năm đặc điểm tính cách được chấp nhận rộng rãi, bao gồm chứng loạn thần kinh - một cách tồn tại thường liên quan đến những cảm xúc tiêu cực như tức giận. Đây là mảnh ghép mà các nhà tim mạch học chú ý đến vì những người tiền nhiệm của họ đã cảnh báo chúng ta rằng cách một người đối phó với sự đa dạng sẽ quyết định sức khỏe của tim.

Những tính cách nào loại A có nguy cơ mắc bệnh tim cao hơn?

Trong hơn 100 năm, quan sát lâm sàng của bệnh nhân CHD đã liên hệ căn bệnh này với một số đặc điểm tính cách nhất định của Loại A: thiếu kiên nhẫn, quá cảnh giác, hung hăng và dễ nổi giận.

Hai bác sĩ tim mạch người Mỹ, Meyer Friedman và Ray Rosenman, bắt đầu xem xét lại mối liên hệ giữa các kiểu hành vi và bệnh tim vào những năm 1950, đi tiên phong trong việc định nghĩa tính cách Loại A và mối liên hệ của nó với bệnh tim.

Năm 1976, các bác sĩ tim mạch thực hiện Nghiên cứu Nhóm Hợp tác Phương Tây, một nghiên cứu theo chiều dọc về hành vi căng thẳng và đưa ra định nghĩa tính cách "Loại A". Theo định nghĩa của họ, tính cách Loại A là những cá nhân có tính cạnh tranh cao, tham vọng, làm việc hiệu quả, có ý thức về thời gian và năng nổ. Các nghiên cứu được thực hiện trong 50 năm tiếp theo đã phát hiện ra rằng những người thuộc tuýp A có nguy cơ mắc bệnh tim và huyết áp cao hơn những người thuộc tuýp B nhẹ nhàng.

Một số nhà tâm lý học cho biết, các nghiên cứu được thực hiện trên phụ nữ không cho thấy sự khác biệt đáng kể giữa sức khỏe của người thuộc loại A và loại B. Điều này có thể gợi ý rằng, các chiến lược đối phó với căng thẳng khác nhau cũng quan trọng như tính cách.

Friedman và Rosenman đã tìm thấy bằng chứng vào đầu những năm 80 cho thấy, những người đàn ông da trắng, trung lưu mang tính cách Loại A có nguy cơ mắc CHD cao nhất.

Robert Sapolsky, một nhà sinh vật học thần kinh và linh trưởng học tại Đại học Stanford, cho biết: “Phải đến những năm 1980, mới có đủ dữ liệu cho thấy rằng, tính cách loại A là một yếu tố nguy cơ đối với bệnh tim mạch lớn hơn so với việc bạn hút thuốc, thừa cân, có mức cholesterol cao".

Các nghiên cứu của Framingham đã hỗ trợ lý thuyết của Friedman và Rosenman về nhóm rủi ro chính. Một nghiên cứu cho thấy những hành vi cụ thể của người thuộc tính cách Loại A như quá tải công việc, thái độ thù địch bị kìm nén và thường xuyên thăng chức khiến những người này có nguy cơ phát triển CHD cao hơn, đặc biệt là ở nhóm tuổi 55 - 64.

Ở nam giới từ 45 - 64 tuổi, hành vi Loại A có liên quan đến nguy cơ đau ngực nghiêm trọng, nhồi máu cơ tim và CHD nói chung gấp hai lần so với hành vi Loại B.

Điều thú vị là mối liên quan chỉ được tìm thấy giữa những người lao động trí óc và cũng độc lập với các yếu tố nguy cơ mạch vành tiêu chuẩn và các thang đo tâm lý xã hội khác. Nghiên cứu này cho thấy hành vi Loại A và thái độ thù địch bị ức chế có thể liên quan đến cơ chế bệnh sinh của CHD ở cả nam và nữ.

Trong một phân tích đa biến, hành vi Loại A và kìm nén sự tức giận là những yếu tố dự báo độc lập về tỷ lệ mắc bệnh CHD. Nghiên cứu Framingham đã tìm thấy mối tương quan giữa phụ nữ Loại A (45 - 64 tuổi) phát triển CHD và nam giới.

Những phụ nữ được khảo sát đều có cùng cơ chế đối phó với các tình huống căng thẳng bằng cách kìm nén cảm xúc thù địch. Trong một cuộc khảo sát, hàng nghìn người loại A cho biết họ sẽ kìm nén cảm giác căng thẳng và lo lắng mà không thể hiện hay thảo luận về sự tức giận.

Nghiên cứu kết luận rằng, phụ nữ loại A phát triển CHD nhiều gấp đôi và đau ngực dữ dội gấp ba lần so với phụ nữ loại B.

Điều gì xảy ra trong cơ thể khi sự thù địch và giận dữ biểu hiện thành bệnh?

Theo Viện Y tế Quốc gia, tức giận có thể dẫn đến giải phóng catecholamin dư thừa và tăng phản ứng tim mạch, sau đó dẫn đến nhịp nhanh xoang cấp tính, tăng huyết áp, giảm tưới máu vành và tim không ổn định.

Khi một người ở trong trạng thái tinh thần tức giận hoặc thù địch hoặc chế độ “chiến đấu”, các dây thần kinh giao cảm của họ thường ở trạng thái hưng phấn dẫn đến nhịp tim nhanh hơn, tăng tiêu thụ oxy của cơ tim, tăng cung lượng tim, huyết áp cao hơn và đường huyết cao hơn. Gan có xu hướng tổng hợp chất béo trung tính để cung cấp nhiều năng lượng hơn, do đó góp phần làm rối loạn lipid.

Một người khi tức giận thì nhịp tim cao, huyết áp cao, đường huyết cao. (Ảnh pexels)

Chúng ta thấy sự tức giận và thù địch thể hiện trong cơ thể như thế nào, hiện nay chúng ta cũng có bằng chứng khoa học cho thấy các tế bào của chúng ta ghi nhớ từng hành vi phạm tội. Các nghiên cứu về tim đã chỉ ra rằng, nó là cơ quan tốt nhất cho trí nhớ của tế bào.

Ví dụ, trí nhớ tế bào đã được chứng minh trong những người nhận ghép tim. Những người này vẫn giữ được các đặc điểm tính cách của người hiến tặng. Bằng chứng đã chỉ ra rằng sở thích về tính cách có thể được chuyển sang người khác cùng với cơ quan được cấy ghép. Nghiên cứu trí nhớ tế bào, chúng ta biết được trí nhớ được giữ lại bên ngoài não và các tế bào thần kinh.

Các lý thuyết hiện tại mô tả sáu cơ chế khả dĩ mà ký ức có thể được lưu trữ: biểu sinh, DNA, RNA, protein, năng lượng và cái mà một số bác sĩ gọi là “não trái tim”. Trái tim nắm giữ những cảm xúc, dù là tiêu cực hay tích cực.

Khi chúng ta phản ứng với các kích thích theo cách tiêu cực, các phản ứng cá nhân của chúng ta sẽ được lưu trữ trong cơ thể, tế bào và các cơ quan của chúng ta”, TS Dong nói. “Khi một tình huống tương tự xảy ra lần nữa, các tế bào của chúng ta sẽ phản ứng theo cách tương tự. Việc lặp đi lặp lại các chế độ phản ứng như vậy sẽ hình thành những ký ức lâu dài trong tế bào và cơ thể của chúng ta. Điều này có nghĩa là tính cách tiêu cực thực sự có thể gây hại cho sức khỏe của chúng ta”.

Các cơ chế của trí nhớ tế bào là một trong những lĩnh vực hấp dẫn nhất trong khoa học,” TS Dong tiếp tục, “và còn rất nhiều điều để khám phá. Nhưng nếu chúng ta muốn loại bỏ tận gốc căn nguyên của những căn bệnh như CHD, thì về cơ bản, chúng ta phải điều trị nhân cách 'bị nhiễm bệnh', đó thực sự là tinh thần vật chất hóa".

Mối liên kết giữa tâm trí và cơ thể

Một bài báo năm 1991 được xuất bản trên Tạp chí Tính cách Châu Âu của Tiến sĩ Hans Eysenck thuộc Đại học London đã kiểm tra thêm những tác động tiêu cực của kiểu tính cách Loại A.

Phân tích của Eysenck về dữ liệu cho thấy sự tức giận, hung hăng và thù địch liên quan đến các yếu tố nguy cơ về thể chất của CHD khiến ông có hy vọng can thiệp tâm lý.

Ông viết: “Không nghi ngờ gì nữa, quá trình này rất phức tạp và có thể liên quan đến nhiều cơ chế bệnh tật trên cơ thể. Không có gì được khẳng định nhiều hơn một sự khởi đầu cho một quá trình khám phá dài, nhưng thú vị và đáng giá”.

Trong một trong những cuốn sách đầu tiên của Eysenck, ông trích dẫn các văn bản thiêng liêng trong Mahabharata mô tả khái niệm về bệnh tật của tâm trí/cơ thể:

Có hai loại bệnh - thể xác và tinh thần. Cái này phát sinh từ cái kia. Không cái nào được coi là tồn tại nếu không có cái kia. Rối loạn tâm thần phát sinh từ những rối loạn thể chất, và rối loạn thể chất cũng phát sinh từ những rối loạn tâm thần”.

Dong cho biết: “Hiện nay chúng ta có vô số nghiên cứu khoa học về tâm lý học, thần kinh học và nội tiết học liên kết giữa“ tâm trí và “cơ thể”. Chúng được kết nối với nhau và trên thực tế, tương tác với nhau ở nhiều cấp độ". TS Dong nói thêm: “Một trong những đồng nghiệp dược trước đây của tôi, là một nhà vi sinh vật học cao cấp, đã chia sẻ với tôi quan niệm của anh ấy rằng tâm trí và cơ thể con người là một và giống nhau. Anh ấy nói với tôi rằng, anh ấy đã khỏi đau chân chỉ bằng cách sử dụng liệu pháp tâm lý. Nói cách khác, anh chữa khỏi cơ thể bằng cách chữa trị tâm trí. Khi bạn điều trị tâm trí, bạn cũng điều trị cơ thể cùng lúc”.

Ba cách giảm căng thẳng cho người tính cách Loại A

Hầu hết mọi người đều biết có những phương pháp đã được chứng minh để điều trị căng thẳng kéo dài. Để tìm ra phương pháp phù hợp, hãy nghĩ xem điều gì giúp bạn bình tĩnh hơn. Nếu bạn không thích yoga hoặc thiền, có thể câu cá hoặc đọc sách. Câu hỏi đặt ra là, liệu những người tính cách loại A có thấy tầm quan trọng của sự thay đổi để cứu lấy cuộc đời mình?

Nhiều người Loại A cảm thấy họ không thể thay đổi được tính cách cứng rắn của mình mặc dù các nghiên cứu y tế và tâm lý cho thấy họ có thể phát triển các chiến lược đối phó và kỹ năng quản lý cơn giận.

Dong cho biết: “Có những loại thuốc có thể giúp điều trị huyết áp cao, và các chất bổ sung cũng như điều chỉnh lối sống có thể giúp ích, nhưng việc thay đổi cách bạn phản ứng với các tình huống cũng là điều cần thiết. Bạn có thể đi trị liệu để tìm hiểu các cơ chế đối phó lành mạnh với các tình huống căng thẳng, nhưng cũng có khá nhiều điều bạn có thể tự làm”.

TS Dong đã liệt kê ba cách đã được nghiên cứu để giúp giảm căng thẳng cho những người thuộc tuýp A.

(1) Hãy đánh giá cao hơn.

Nếu chúng ta thay đổi quan điểm của mình về người khác, chúng ta có thể ít cạnh tranh hơn, nhưng biết ơn nhiều hơn”, cô nói.

Robert Emmons, Tiến sĩ, giáo sư tâm lý học tại Đại học California Davis và là tác giả của Cuốn sách nhỏ về lòng biết ơn cho biết: “Lòng biết ơn là liều thuốc tốt”. “Các thử nghiệm lâm sàng chỉ ra rằng việc thực hành lòng biết ơn có thể có những tác động lâu dài và mạnh mẽ đến cuộc sống của một người. Nó có thể làm giảm huyết áp và cải thiện chức năng miễn dịch”.

(2) Thay đổi môi trường của bạn.

TS Dong nói, “Vấn đề của người Loại A là kiểm soát. Hãy thử thụ động trong một ngày. Nếu bạn nổi giận, hãy chuyển sự tập trung ra khỏi cảm xúc tiêu cực bằng cách đi dạo ở một nơi đẹp. Nghe nhạc truyền thống”.

Theo một bài báo gần đây về Tâm lý học Đơn giản của Tiến sĩ Saul McLeod, đối phó với căng thẳng có thể không phải là sở trường của Loại A vì họ dường như luôn đấu tranh với đồng hồ.

McLeod đã viết: "Thông thường, họ nhanh chóng trở nên mất kiên nhẫn với sự chậm trễ và thời gian không hiệu quả, lên lịch cam kết quá chặt chẽ và cố gắng làm nhiều việc cùng một lúc, chẳng hạn như đọc sách trong khi ăn hoặc xem truyền hình".

Hiệp hội Tâm lý Hoa Kỳ (APA) đề xuất một số kỹ thuật trong bài báo có tiêu đề “Làm thế nào để kiểm soát cơn tức giận trước khi nó kiểm soát bạn”. Một trong những chiến lược quan trọng mà mọi người có thể tự học là thay đổi môi trường khi họ tức giận bằng cách cho bản thân nghỉ ngơi, bao gồm việc lên lịch cho một số “thời gian cá nhân” trong ngày đặc biệt căng thẳng. Thay đổi môi trường của bạn. Nghỉ giải lao.

APA viết: “Đôi khi chính môi trường xung quanh chúng ta là nguyên nhân khiến chúng ta bực bội và tức giận. Các vấn đề và trách nhiệm có thể đè nặng lên bạn khiến bạn cảm thấy tức giận trước 'cái bẫy' mà bạn dường như đã rơi vào cũng như với tất cả những người và sự vật tạo thành cái bẫy đó".

(3) Tham gia thiền chánh niệm.

hầu hết mọi người đều biết rằng thiền định giúp giảm căng thẳng và tức giận, nhưng ít người sử dụng nó để ngăn ngừa bệnh tim. (Shutterstock)

Trong một bài đánh giá được công bố trên Springer Science, các nhà nghiên cứu đã xem xét các nghiên cứu về tác dụng của thiền chánh niệm. Họ nhận thấy rằng khi mọi người tham gia vào các kỹ thuật thiền và thư giãn, họ bắt đầu phản ứng và đối phó với căng thẳng tốt hơn nhiều, đồng thời ghi nhận sự tỉnh táo và sức khỏe tâm lý tăng lên.

TS Dong cho biết, hầu hết mọi người đều biết rằng thiền định giúp giảm căng thẳng và tức giận, nhưng ít người sử dụng nó để ngăn ngừa bệnh tim. “Họ có thể học cách xử lý các tình huống căng thẳng”, cô nói. “Khi bạn tách mình khỏi những cảm xúc tiêu cực, bạn có thể trở lại trạng thái cảm xúc cân bằng nhanh chóng, không để sự tức giận và thù địch kiểm soát bạn. Và tôi thực sự tin rằng trái tim của bạn sẽ cảm ơn bạn vì điều đó”.

Theo lời của nhà triết học La Mã Lucius Seneca: “Nếu bạn thực sự muốn thoát khỏi những thứ quấy nhiễu mình, điều bạn cần không phải là ở một nơi khác, mà là trở thành một con người khác”.

Tác giả: Dr. Yuhong Dong và Beth Giuffre - The Epoch Times

Minh Sang biên dịch

Trải nghiệm lớp hướng dẫn thiền định online hàng tuần miễn phí tại đây.



BÀI CHỌN LỌC

Yếu tố nguy cơ đáng ngạc nhiên của bệnh tim mạch vành