Chính phủ liên bang Mỹ đã 'chuyên chế' hơn từ khi Tối cao Pháp viện viết lại Hiến pháp 1937–1944

Giúp NTDVN sửa lỗi

Hiến pháp đã tạo ra một chính phủ liên bang tương đối nhỏ và quyền hạn chỉ giới hạn trong một số chủ thể nhất định. Đó là một tổ chức tiết kiệm, được thiết kế để “bảo tồn các phước lành của Nữ thần Tự do” và mang lại những điều tốt đẹp nhất cho con người. Vậy bằng cách nào mà các cơ quan của liên bang hiện nay lại điều chỉnh gần như mọi khía cạnh trong cuộc sống người dân Mỹ? Bằng cách nào mà một chính phủ liên bang được tạo ra để bảo vệ quyền tự do lại trở nên độc đoán và chuyên chế như vậy? Bắt đầu từ thời điểm nào nó khuyến khích các hành vi xấu cả trong giới quan chức và người dân? Tại sao ngân sách hàng năm luôn thâm hụt với số lượng ngày càng lớn?

Phần I: Một chính phủ nhỏ và thanh đạm

Những thay đổi lớn luôn ẩn chứa nhiều nguyên nhân. Loạt bài này tập trung vào một nguyên nhân cốt lõi, đó chính là sự thoái thác trách nhiệm của một số thẩm phán Tối cao Pháp viện, chủ yếu trong khoảng thời gian từ những năm 1937 đến 1944.

Sự thay đổi diễn ra trong bối cảnh suy thoái kinh tế và các cuộc chiến tranh thế giới triền miên. Nước Mỹ trước đây cũng đã trải qua những cuộc khủng hoảng tương tự nhưng chưa hề thay đổi hình thức chính phủ của mình. Tuy nhiên, kết quả lần này hoàn toàn khác. Nguyên nhân chính là do Tối cao Pháp viện đã từ chối bảo vệ Hiến pháp.

Nhiều học giả đã công nhận rằng, khi các thẩm phán ‘lơ là bổn phận’thì về cơ bản có nghĩa là Hiến pháp đã bị sửa đổi mà không cần thông qua bất kỳ thủ tục nào hết. Ngoài chín thẩm phán thì không có ai bỏ phiếu ủng hộ sự thay đổi này. Nhiều nhất thì mọi người bỏ phiếu cho các ứng cử viên. Dư âm của các cuộc khủng hoảng suy thoái kinh tế và chiến tranh thế giới có lẽ đã khiến người dân Mỹ ủng hộ một số thay đổi hiến pháp trong trường hợp được yêu cầu. Nhưng chúng ta sẽ không bao giờ biết được nó giúp ích những gì, bởi vì họ chưa bao giờ được yêu cầu làm việc đó.

Trong thời kỳ này, người Mỹ có ít Quyền Bảo Đảm hơn. Họ mất đi thu nhập và quyền tự do theo đuổi sinh kế của chính mình. Hàng nghìn người đã bị bỏ tù mà không có văn bản hoặc xét xử của bồi thẩm đoàn, và ít nhất một người đã bị hành quyết bí mật.

Cuối cùng thì Toà án cũng bắt đầu sửa chữa sai lầm của mình. Một số thẩm phán nhận ra rằng họ đã đi quá xa. Nhưng thiệt hại về cơ bản đã xảy ra: Phần lớn Hiến pháp ban đầu đã bị mất và không bao giờ có thể cứu vãn được nữa.

Loạt bài tiểu luận này sẽ giải thích cách thức quá trình đó diễn ra như thế nào.

Một chính phủ liên bang bị giới hạn ở một nước Mỹ tự do

Cha tôi sinh năm 1911 và lớn lên trong khu ổ chuột ở Brooklyn, New York. Khi ông còn là một thiếu niên trong những năm sau Thế chiến thứ nhất, chính phủ liên bang được công nhận giống như thể chế sau khi Tuyên ngôn Nhân quyền được phê chuẩn vào năm 1791.

Vâng, đã có một số thay đổi. Không còn chế độ nô lệ. Các tu chính án thứ mười ba, mười bốn và mười lăm đã trao cho Quốc hội quyền lực để bảo vệ các nhóm thiểu số. Tu chính án thứ 16 đã trao cho Quốc hội quyền thu thuế thu nhập liên bang từ tất cả các cá nhân và doanh nghiệp mà không chia sẻ hoặc “phân bổ” giữa các bang hoặc dựa trên việc thu thuế theo Điều tra dân số Hoa Kỳ. Tu chính án thứ mười bảy cho phép người dân bầu cử trực tiếp các thượng nghị sĩ Hoa Kỳ, và Tu chính án thứ mười chín bảo đảm quyền bầu cử của phụ nữ. Nhưng như tôi đã chỉ ra trong các bài luận trước đây, những thay đổi này không mang tính cách mạng như ý kiến của một số người. Một Hệ thống Dự trữ Liên bang ra đời, nhưng đó chỉ là một ngân hàng quốc gia, và chúng ta cũng có các ngân hàng quốc gia theo thời gian kể từ khi thành lập nhà nước cộng hòa.

Một thay đổi quan trọng hơn là Lệnh Cấm sản xuất và phân phối rượu của Tu chính án thứ mười tám. Mọi người đàn ông thứ hai trong cộng đồng Do Thái của cha tôi đã trở thành một “giáo sĩ Do Thái”. Các cộng đồng tôn giáo khác cũng có những cách né tránh tương tự. Nhưng lệnh cấm này đã bị bãi bỏ và nhanh chóng biến mất.

Ở các khía cạnh khác, chính phủ liên bang vẫn duy trì hoạt động như cũ: sản xuất tiền tệ, điều hành bưu điện, văn phòng cấp bằng sáng chế và quân đội. Nhưng với hầu hết mọi người các hoạt động đó không công khai và không nhìn thấy được.

Chi tiêu liên bang thời bình đạt trung bình dưới 5% GDP. Ngân sách vào thời bình thường được cân bằng hoặc thặng dư. Các trường học và các tổ chức khác được kiểm soát và tài trợ bởi các địa phương và tiểu bang. Không có các chương trình phúc lợi hoặc quyền lợi liên bang nào khác. Nhưng người nghèo và người tàn tật không chết trên đường phố: Chính quyền tiểu bang và địa phương duy trì một mạng lưới an toàn xã hội, được bổ sung bởi một mạng lưới các hội đoàn tôn giáo, tổ chức từ thiện tư nhân vì mục tiêu xã hội cùng có lợi .

Ngày nay, chúng ta nghe nhiều về những điều sai trái áp đặt đối với các nhóm thiểu số. Tuy nhiên theo quan điểm phần đa, hệ thống phi tập trung của Mỹ hoạt động rất hiệu quả. Phi tập trung có xu hướng thúc đẩy đổi mới, thịnh vượng và tăng trưởng. Quốc gia phi tập trung của chúng ta đã được hưởng sự đổi mới, tài sản tăng trưởng chưa từng có. Đó là lý do tại sao rất nhiều người nhập cư - bao gồm cả bốn ông bà của tôi - rời quê hương của mình để đến nơi đây. Trở thành một bộ phận dân tộc thiểu số bị coi thường ở Mỹ vẫn còn tốt hơn cuộc sống bình thường ở nơi khác.

Bảo vệ Chính phủ Hạn chế

Trong suốt 140 năm đầu tiên sau khi thành lập nước Mỹ, có hai tổ chức đã giữ cho phạm vi liên bang nhỏ và phạm vi tự do cá nhân lớn. Một là Hiến pháp Hoa Kỳ. Nó hạn chế quyền hạn của liên bang đối với những người được liệt kê trong tài liệu. Thứ hai chính là Tối cao Pháp viện.

Các nhà sáng lập Hoa Kỳ tôn trọng tính chuyên nghiệp và độc lập của cơ quan tư pháp Anh, và họ mong muốn các thẩm phán Hoa Kỳ đáp ứng các tiêu chuẩn tương tự. Một công việc của các thẩm phán Mỹ là xem xét lại tư pháp— từ chối thực thi các hành động của chính phủ vượt quá thẩm quyền hiến pháp.

Nguyên tắc phản biện tư pháp đã được thiết lập ở cấp tiểu bang trước khi có Hiến pháp. Các nhà sáng lập hàng đầu giải thích rằng, nguyên tắc này cũng sẽ được áp dụng ở cấp liên bang. Trong số đó có Alexander Hamilton (trong “Người liên bang” số 16, 78 và 81) và một luật sư trẻ người Virginia tên là John Marshall, phát biểu tại đại hội phê chuẩn của bang anh ta.

Năm 1803, ông Marshall, khi đó là chánh án, đã viết đơn cho một tòa án ở Marbury kiện Madison, tuyên bố hủy bỏ một phần của luật liên bang là vi hiến. Mười sáu năm sau, Marshall lại viết thư cho một tòa án, lần này là trong vụ McCulloch kiện Maryland:

Trong khi Quốc hội thực thi quyền hạn của mình, thông qua các biện pháp bị hiến pháp cấm hoặc thông qua các đối tượng không đáng tin cậy trong chính phủ để hoàn thành, thì sẽ trở thành một nỗi đau của tòa án. Nếu một vụ án đòi hỏi một quyết định như vậy thì rõ ràng đã không tuân theo pháp luật của nhà nước.

Trong những năm sau đó, Tối cao Pháp viện đôi khi cũng mắc sai lầm. Nhưng các biện pháp can thiệp của cơ quan này đủ thường xuyên và đủ thích hợp để giới hạn chính phủ liên bang. Trong những năm 1930 và 1940, điều này đã thay đổi.

Quan điểm được trình bày trong bài viết này là ý kiến ​​của tác giả và không nhất thiết phản ánh quan điểm của NTDVN.

Giáo sư Robert Natelson, cựu giáo sư luật hiến pháp, chuyên gia cao cấp về hiến pháp tại Viện Độc lập ở Denver, là tác giả của “The Original Constitution: What It Actually Said and Meant (xuất bản lần thứ 3, 2015).

Huyền Anh

Theo The Epoch Times



BÀI CHỌN LỌC

Chính phủ liên bang Mỹ đã 'chuyên chế' hơn từ khi Tối cao Pháp viện viết lại Hiến pháp 1937–1944