NATO đã trở thành giấc mơ chết chóc của Ukraine - Quân dân thê thảm, ai kẻ đắc thời?

Giúp NTDVN sửa lỗi

NATO đã chính thức phát đi thông điệp từ bỏ Ukraine. Xét về mặt chính trị, thông điệp này của NATO đã bắc một cái thang cho cuộc chiến Ukraine - Nga hạ nhiệt; một hi vọng hoà bình mong manh đã bùng lên. Hiển nhiên, không có bất cứ điều gì có thể biện minh cho hành động xâm lược của ông Putin. Nhưng ở chiều ngược lại, quân dân của Ukraine, của Nga đã phải trả một cái giá quá đắt cho giấc mơ NATO trong bối cảnh những 'bạo chúa chính trị' chỉ cố gắng đạt được mục tiêu của cá nhân của họ. Chưa tính tới các tài phiệt vũ khí, tài phiệt tài chính, các chính trị gia đều là những kẻ đắc thời nhất khi chiến tranh bùng nổ, những người không bao giờ chết hay chảy máu vì bom đạn...

Trong cuộc họp báo ngày 7/1/2022, Tổng thư ký NATO Jens Stoltenberg, bất chấp sự trung quân số khổng lồ của Nga, đã thách thức bằng khẳng định rằng cánh cửa của NATO sẽ vẫn rộng mở đối với Kyiv, nói rằng "chúng tôi bảo vệ các quyết định [của NATO] tại Hội nghị thượng đỉnh Bucharest [2008] khi đề cập đến [tư cách thành viên của] Ukraine và Gruzia”.

Chiến tranh đã bùng nổ, quân đội Nga đã tràn vào Ukraine. Bom đạn mang theo hơi thở của chết chóc, tàn phá và những tổn thương không thể chữa lành cho loài người. Hơn ai hết, tổng thống Nga phải chịu trách nhiệm về tội ác này. Nhưng quay trở lại với vị thế kẹt cứng của Ukraine: giấc mơ vào NATO của họ là một thảm kịch.

Hôm thứ Tư (16/3/2022), NATO đã từ chối lời đề nghị của Ba Lan đưa đội quân hoà bình sang Ukraine nhằm chặn các đòn tấn công ác liệt từ Moscow. Giám đốc NATO, ông Jens Stoltenberg hôm thứ Tư cho biết liên minh đang tìm cách tăng cường đáng kể lực lượng ở sườn phía đông sau cuộc xâm lược của Nga vào Ukraine, nhưng sẽ không gửi quân đến quốc gia bị chiến tranh tàn phá.

"Chúng tôi ủng hộ các nỗ lực hòa bình, chúng tôi kêu gọi Nga, Tổng thống Putin rút lực lượng, nhưng chúng tôi không có kế hoạch triển khai quân đội NATO trên bộ ở Ukraine", ông Stoltenberg nói với các nhà báo sau cuộc họp giữa các bộ trưởng quốc phòng NATO vào ngày 16/3 vừa qua.

Một cách công bằng, chúng ta cần phải rõ ràng, dù rất đau đớn, rằng ám ảnh kéo dài 14 năm của NATO về việc Ukraine gia nhập liên minh là một sai lầm ngay từ đầu.

Ukraine có rất ít ý nghĩa quân sự với NATO

Nhận định này có vẻ đi ngược lại với phần đa sự phẫn nộ của các chính phủ, các chính trị gia, dân số trên khắp toàn cầu hiện nay. Nhiều người lập luận rằng ước mơ vào NATO là tự do lựa chọn Ukraine, rằng nếu nhượng bộ Putin thì Mỹ và phương tây (đại diện cho NATO) đang thể hiện sự yếu kém. Thậm chí một số nhà quan sát còn cho rằng việc gia nhập Ukraine vào NATO sẽ làm cho liên minh này mạnh hơn; đặc biệt khi Putin 'ghét' Ukraine. Tuy nhiên, với những người quan sát địa chính trị trong mối tương quan sâu sắc với lịch sử, thì việc giấc mơ NATO của Ukraine là một sai lầm chiến lược, ít nhất mang tính thời điểm; đặc biệt khi Mỹ không còn kiềm chế sức mạnh của Nga như dưới thời cựu tổng thống Donald Trump.

Ngày 9/5/1955, Tây Đức chính thức gia nhập NATO, nâng tổng số lên 15 nước thành viên. Chỉ 5 ngày sau, Liên Xô tuyên bố thành lập liên minh quân sự đối địch Khối Warszawa. Liên Xô, với kho vũ khí hạt nhân khổng lồ và quân đội thông thường, đã tìm cách cân bằng NATO bằng Bức màn sắt ngăn cách hai liên minh qua Đông và Tây Đức, chỉ cách eo biển Manche 400 dặm.

Bức tường Berlin là biểu tượng của "Bức màn sắt". Hình ảnh một phần của bức tường Berlin chụp hồi tháng 8/1962. (Photo by Central Press/Getty Images)
Bức tường Berlin là biểu tượng của "Bức màn sắt". Hình ảnh một phần của bức tường Berlin chụp hồi tháng 8/1962. (Photo by Central Press/Getty Images)

Vào thời kỳ đỉnh điểm của Chiến tranh Lạnh, Khối Hiệp ước Warsaw vượt trội NATO về xe tăng và tàu sân bay bọc thép, số lượng tuyệt đẹp từ 180.000 đến 68.000, nhân lực dao động từ 4,5 - 6 triệu, tên lửa chiến lược trang bị hạt nhân ở mức 1.997 - 2.743.

Daniel L. Davis, thành viên cao cấp về các ưu tiên quốc phòng và là cựu Trung tá trong Quân đội Hoa Kỳ, người đã 4 lần thực thi nhiệm vụ trong khu vực chiến sự. Ông cũng đồng thời là tác giả của cuốn sách “Giờ thứ 11 ở Mỹ năm 2020”, đã nhận xét về tương quan lực lượng giữa NATO và Warsaw thời chiến tranh lạnh trên trang 19fortyfive như sau: "trong những ngày tàn của Chiến tranh Lạnh, tôi ở trong Trung đoàn kỵ binh số 2 của Hoa Kỳ chịu trách nhiệm tuần tra một phần của ranh giới phân chia Đông-Tây ở Tây Đức. Tôi nhận thức rõ ràng rằng toàn bộ NATO sẽ bấp bênh như thế nào nếu Hồng quân tràn đến, thông qua Fulda Gap".

Sau khi Liên Xô tan rã, khối Warsaw không còn, NATO đã tranh thủ mở rộng 19 thành viên với sự gia nhập của Cộng hòa Séc, Ba Lan và Hungary hồi năm 1999, đây chính là thời điểm mà NATO mạnh nhất. Dưới góc nhìn của ông Davis, thì nếu "NATO ngừng mở rộng, chỉ dừng lại ở 19 thành viên, liên minh ngày nay sẽ ở vị trí quyền lực và an ninh ưu việt".

Để chứng minh cho nhận định của mình, ông Davis nhắc lại rằng vào năm 2000, NATO có vùng đệm giữa khối này với Nga ở phía bắc với ba nước Baltic, phía đông với Belarus và Ukraine, và ở phía nam với Romania, Serbia và các nước khác. Về mặt kinh tế, NATO là một trong những khối hùng mạnh nhất trên thế giới. Về mặt quân sự, các quốc gia NATO ở sườn phía đông có đường biên giới tăng cường lẫn nhau với các quốc gia thành viên khác, và các quốc gia độc lập và không bị đe dọa ở biên giới phía đông của họ. Tuy nhiên, 4 năm sau, NATO bắt đầu đánh mất lợi thế của mình và gánh chịu rủi ro quân sự.

Với sự gia nhập của ba quốc gia Baltic vào năm 2004, NATO, lần đầu tiên trong lịch sử, đã làm suy yếu khả năng phòng thủ chung của mình bằng cách mở rộng các điều khoản 5 bảo đảm cho ba quốc gia có nguy cơ tiếp xúc với Nga, và chỉ có một hành lang đất liền nhỏ với phần còn lại của liên minh, gần như bị bao vây bởi Kaliningrad, Belarus và Nga. Trong trường hợp xảy ra xung đột, NATO sẽ rất khó để có được sức mạnh trên bộ ở ba nước Baltic và các tuyến tiếp tế sẽ bị tấn công từ mặt đất, trên không và tên lửa của Nga, với rất ít phương tiện hỗ trợ lẫn nhau từ các thành viên liên minh khác.

Sai lầm của NATO xa hơn; rất nhiều chuyên gia quân sự, địa chính trị đã khẳng định quan điểm này, không chỉ ông Davis. Năm 2008, NATO chính thức tuyên bố rằng một ngày nào đó Ukraine và Gruzia sẽ trở thành thành viên liên minh. Theo ông Davis "Nếu lời mời năm 2004 dành cho ba quốc gia Baltic làm suy yếu NATO, sự gia nhập của hai quốc gia này - đặc biệt là Ukraine - sẽ có khả năng khiến toàn bộ liên minh gặp rủi ro trong trường hợp xảy ra chiến tranh trong tương lai".

Tại sao? Đây là góc nhìn của nhà phân tích chiến lược quân sự Daniel L. Davis.

Thứ nhất, việc đưa Ukraine vào liên minh NATO không hề cải thiện khả năng phòng thủ của liên minh. Chưa kể, Ukraine sẽ tạo ra khoản lỗ ròng cho NATO. Bằng việc sáp nhập Ukraine, NATO không còn vùng đệm giữa phần lớn vùng Baltic và toàn bộ nửa phía đông Ukraine.

Về mặt quân sự, điều này có nghĩa là, quân đội Nga có thể bao vây ba phía của Ukraine bất cứ lúc nào. Và chính xác là Nga đã làm như vậy trước khi chiến tranh nổ ra.

Thứ hai, Nga có thể xây dựng các căn cứ quân sự lâu dài, hầm chứa tên lửa và lưu trữ kho dự trữ chiến tranh lớn ở ngay sát biên giới NATO. Trong khi đó, sẽ có hàng trăm dặm đường có khả năng tranh chấp mà trên đó NATO sẽ phải tăng cường quân đội của mình để chống lại Nga.

Lý do cuối cùng, cũng là điều tồi tệ nhất: như chúng ta đang chứng kiến ​​trong cuộc chiến xâm lược Ukraine của Nga bây giờ, nguy cơ vũ khí hạt nhân được sử dụng nếu Nga đối đầu trực tiếp với NATO.

Trên thực tế, một cuộc tập trận mô phỏng năm 2019 - mô phỏng một cuộc tấn công của Nga vào Ukraine - đã leo thang đến một cuộc giao tranh hạt nhân, và một tỷ người được ước tính đã thiệt mạng. NATO lẽ ra không bao giờ đề nghị kết nạp Ukraine. Bất kể Putin làm gì hay không muốn điều gì, NATO cần làm những gì tốt nhất cho liên minh và cho an ninh toàn cầu; NATO đáng lẽ phải tạm hoãn mọi cân nhắc về việc Ukraine trở thành thành viên trong tương lai.

Xảo trá: Cuộc chiến Nga - Ukraine đang đổi máu của dân và binh lính lấy thành tích cho chính trị gia

Không có bất kỳ lời biện minh nào có thể tẩy rửa tội lỗi của người đã phát động chiến tranh là Tổng thống Nga Vladimir Putin. Nhưng cũng không có lời biện minh nào có thể gột rửa tội lỗi của những lãnh đạo quốc gia Ukraine, Mỹ và NATO đã thúc đẩy cuộc chiến tranh này.

Có một điều phi lý đến mức khó tin, khi giấc mơ vào NATO của Ukraine phải trả bằng máu của thường dân và binh lính từ hai chiến tuyến trong khi việc này không hữu ích gì cho chính NATO hay hoà bình thế giới, thì các chính trị gia đang có nguy cơ bị hạ bệ vì điều hành đất nước yếu kém, lại đang nhận được sự ủng hộ trở lại từ cử tri, được mở rộng quyền lực nhờ tăng cường chi tiêu ngân sách. Họ thậm chí còn trở thành anh hùng, người có trái tim vì lên án cuộc chiến mà chính họ đã thúc đẩy trực tiếp hoặc ngấm ngầm gián tiếp. Truyền thông dòng chính ở phương Tây đã thành công trong chiến dịch ca ngợi các chính trị gia này.

Trước hết, hãy nói về tổng thống Ukraine Zelenskyy. Chỉ vài ngày sau khi cuộc chiến tranh nổ ra, các bài phát biểu quyết tử chiến với Nga đã giúp Zelenskyy đảo ngược tình cảm của người dân dành cho ông.

Một cuộc thăm dò được thực hiện bởi Nhóm xã hội học xếp hạng và được Kyiv Independent công bố vài ngày sau khi Nga tấn công Ukraine cho thấy tỷ lệ ủng hộ Tổng thống Volodymyr Zelensky đã tăng vọt lên 91%, tin từ Breitbart. Trước đó hai tuần, một cuộc thăm dò khác được tiến hành bởi Viện Xã hội học Quốc tế Kyiv cho thấy chỉ 30% người được hỏi muốn Zelensky tranh cử nhiệm kỳ thứ hai với tư cách tổng thống và chỉ 23% nói rằng họ sẽ bỏ phiếu cho đương kim tổng thống nếu ông ấy tiếp tục ứng cử.

video selfie, Tổng thống Ukraine, Volodymyr Zelenskyy, mạng xã hội
Những video selfie quay từ iPhone của Tổng thống Ukraine Volodymyr Zelenskyy đang nhanh chóng lan truyền trên mạng xã hội. (Ảnh chụp màn hình YouTube)

Cảm xúc phẫn nộ với quân xâm lược, chiến tranh và cái ác, cộng hưởng với sự hun đúc của truyền thông khiến người Ukraine quên mất rằng: muốn nói gì đi chăng nữa, một thủ lĩnh dẫn dắt cả quốc gia bước vào cuộc chiến tranh vô nghĩa là một thủ lĩnh tồi. Có những nguyện vọng chỉ có thể cân nhắc khi đủ cả Thiên thời - Địa lợi - Nhân hoà.

Về thiên thời, bố cục địa chính trị toàn cầu thay đổi hoàn toàn sau khi tổng thống Donald Trump không còn tại vị. Mỹ suy yếu và tình hình trong nước rối ren, thất bại trên các mặt trận quốc tế, đánh mất năng lực dẫn đầu. Trong khi đó Trung Quốc (bạn thân của Nga) trỗi dây, giá dầu (tử huyệt cũng là điểm mạnh của Nga) tăng vọt. Gọng kìm mà ông Trump để lại kiềm chế Nga: giá dầu, đường ống dẫn dầu từ Israel vào Đức, không miệt thị Nga đã bị ông Biden hoàn toàn gỡ bỏ. Thêm vào đó, 4 năm cả thế giới chưa có cuộc chiến tranh nào, nhiều thế lực cần một cuộc chiến để tạo tiền, lợi nhuận.

Về địa lợi, trong nước Ukraine, tình trạng 2 tỉnh đòi độc lập chưa xử lý được như chính phủ hứa. Xung đột ở hai tỉnh đòi ly khai này tăng cường bởi phe cực hữu ở Ukraine thù ghét người Nga. Việc tấn công và muốn loại bỏ người Nga khỏi cộng đồng của phe cực hữu không được xoa dịu bởi chính phủ đã thúc đẩy mâu thuẫn, xung đột. Thêm vào đó, cuộc chiến chống tham nhũng của tổng thống Ukraine Zelenskyy hoàn toàn thất bại. Một quốc gia nội loạn từ bên trong, suy yếu từ bên trong khiến Ukraine yếu nhược hơn. Đây không phải là thời điểm thích hợp để dẫn dắt quốc gia bước vào cuộc chiến sinh tử vì một lý do không hề 'sinh tử': gia nhập NATO.

Rõ ràng, thời điểm lãnh đạo Ukraine không nhượng bộ Nga và khăng khăng gia nhập NATO, quốc gia này không có cả Thiên thời - Địa lợi - Nhân hoà. Điều này khiến giới quan sát bên ngoài, những người điềm tĩnh hơn, tự hỏi có phải quyết định không nhượng bộ của ông ấy (trước khi cuộc chiến xảy ra) đã nằm trong kế hoạch của thế lực thích chiến tranh ở phương Tây hay không?

Chưa bàn tới câu hỏi mang hơi hướng thuyết âm mưu này, chỉ bằng một cuộc chiến tranh, Zelenskyy đang nổi lên như một anh hùng, người tử chiến với thế lực xâm lược từ Nga; một vị tổng thống chính nghĩa. Tỷ lệ ủng hộ ông ấy đã đảo ngược từ 30% lên 91% ở Ukraine. Cả toàn dân Ukraine mất mát và đau thương hay Putin trở thành tội đồ thế kỷ thì Zelenskyy đã chiến thắng.

Tiếp theo, hãy nói về tổng thống Mỹ Joe Biden, người đang lên án Putin là 'tội phạm chiến tranh'. Với vai trò lãnh đạo NATO, Mỹ có vai trò rất lớn trong việc gìn giữ hoà bình và cân nhắc chi phí cho NATO. Nhưng điều gì khiến Mỹ và NATO không nhượng bộ trong giấc mơ mang Ukraine gia nhập vào liên minh của họ? Rõ ràng, đó không phải là quyết định khôn ngoan về quân sự, chi phí và hoà bình cho thế giới như đã phân tích ở trên.

Nhưng hãy nhìn lại nước Mỹ, cuộc bầu cử giữa kỳ 2022 đang đến gần. Sau hơn một năm tại vị, ông Joe Biden cùng chính phủ của mình đang phải đối mặt với rất nhiều cuộc khủng hoảng và vô số lời chỉ trích: lạm phát tăng cao nhất trong 40 năm qua, tăng trưởng dự báo chỉ đạt 2,8% thay vì 4% trước đó, giá xăng dầu tăng cao kỷ lục, suy giảm vai trò lãnh đạo thế giới sau khi rút quân thất bại ở Afghanistan...

Ông Joe Biden phát biểu tại sự kiện "Hội nghị thượng đỉnh về khí hậu" tại Tòa nhà Văn phòng Điều hành Eisenhower ở Washington, DC, ngày 19 tháng 10 năm 2015 (Ảnh của Jim WATSON / AFP/ Getty)
Ông Joe Biden phát biểu tại sự kiện "Hội nghị thượng đỉnh về khí hậu" tại Tòa nhà Văn phòng Điều hành Eisenhower ở Washington, DC, ngày 19 tháng 10 năm 2015 (Ảnh của Jim WATSON / AFP/ Getty)

Nhưng ngay sau cuộc chiến này, Chủ tịch Ngân hàng dự trữ liên bang Mỹ ông Jerome Powell đã đổ lỗi lạm phát là do Nga xâm lược Ukraine. Giá xăng dầu và tiền của trong túi người Mỹ đang bị bốc hơi do Putin mang bom đạn sang Ukraine chứ không phải do Fed đã bơm tiền không cân nhắc vào nền kinh tế, không phải do chính quyền Mỹ đã tăng chi tiêu khổng lồ, càng không phải do ông Biden đã 'tàn sát' ngành công nghiệp khai thác dầu khí trong nước vì 'biến đổi khí hậu'.... Tất cả sự phẫn nộ của người dân được giới truyền thông dòng chính thành công chuyển từ Mỹ sang Nga và Putin. Cuộc chiến này hoàn toàn có thể là cái bình phong, một viên đá đệm đường tốt cho cuộc bầu cử giữa kỳ 2022 của ông Joe Biden và đảng dân chủ.

Không những thế, với tình cảm chính đáng và thống thiết dành cho dân thường Ukraine đang bi thương do bom đạn Nga, Mỹ tăng cường chi viện vũ khí, chế tài cho Ukraine, con số cam kết lên tới 1 tỷ USD. Các quốc gia cũng tăng cường chạy đua vũ trang để phòng chống chiến tranh và leo thang xung đột. Các hãng vũ khí thành kẻ đắc lợi lớn nhất trong cuộc chiến. Đằng sau họ chính là các tài phiệt hàng đầu thế giới - những người mà bản thân và gia đình họ chỉ biết đến chiến tranh qua internet.

Bài viết chỉ thể hiện quan điểm cá nhân của tác giả, không nhất thiết phản ánh quan điểm của NTDVN.

Trà Nguyễn



BÀI CHỌN LỌC

NATO đã trở thành giấc mơ chết chóc của Ukraine - Quân dân thê thảm, ai kẻ đắc thời?