12 năm tìm cách báo thù, vì sao phút cuối lại xóa bỏ oán cừu, bái làm tôn sư?

Giúp NTDVN sửa lỗi

Tương truyền, Tát Thiên Sư từng gây thù chuốc oán với Thiên tướng Vương Linh Quan, nhưng nhờ có đạo hạnh cao khiết ông đã thu phục Vương Linh Quan làm đệ tử. Câu chuyện ấy đã diễn ra như thế nào?

“Tây Du Ký” hồi thứ 7 kể rằng, ngay khi vừa thoát khỏi lò Bát Quái, Tôn Ngộ Không múa gậy sắt đánh đông phá tây, tung hoành ngang dọc, đánh cho Thiên binh Thiên tướng phải tơi bời tan tác, không một vị Thần nào dám đối địch. Duy chỉ có một nhân vật dám cùng Đại thánh so tài, đó là Vương Linh Quan.

Khi ấy, Đại thánh hùng hổ đánh thẳng tới điện Thông Minh và điện Linh Tiêu. Vị Tá sứ của Hựu Thánh Chân Quân là Vương Linh Quan đang canh giữ ở đó bèn rút cây roi vàng ra cản lại. Hai người đánh nhau dữ dội trước Linh Tiêu bảo điện, thực là: Roi vàng gậy sắt vung loang loáng, anh hùng hào kiệt quyết giành hơn, đánh nhau quyết liệt không nhường nhịn, ai thắng ai thua thật khó phân.

Vị Tá sứ Vương Linh Quan kể trên là Thiên tướng của Lôi Bộ và Hỏa Bộ, đồng thời cũng là người đứng đầu trong 500 vị Linh quan - Thần hộ Pháp của Đạo giáo. Ông chính là đệ tử của một trong “Tứ đại Thiên Sư” Tát Thủ Kiên. Câu chuyện giữa hai thầy trò Tát Thiên Sư và Vương Linh Quan cũng là một giai thoại lưu truyền thiên cổ.

Thân thế Tát Thiên Sư

Tát Thiên Sư là Đạo sĩ nổi danh thời Tống tên là Tát Thủ Kiên, hiệu Toàn Dương Tử, còn gọi là Tát Chân Nhân hay Sùng Ân Chân Quân.

Tát Thiên Sư lúc sinh thời là một thầy thuốc, vì vô tình làm chết người nên ông bỏ nghề đi tầm sư học Đạo. Ông từng theo học Hư Tĩnh tiên sinh, sư phụ Lâm Linh Tố và Vương Thị Thần. Hư Tĩnh tiên sinh truyền dạy cho ông môn “Chú tảo bí thuật”, sư phụ Vương Thị Thần dạy ông môn “Lôi pháp”, còn sư phụ Lâm Linh Tố thì dạy ông môn “Bảo phiến nhất bả”.

Tát Thiên Sư đem tài sức ra cứu giúp dân chúng, ông dùng Lôi pháp để trị kẻ gian thần, dùng Bảo phiến để bảo vệ bách tính, dần dần Đạo pháp của ông vang danh khắp nơi, dương quan âm quỷ đều kinh hoàng khiếp sợ. Trong Đạo giáo, Tát Thủ Kiên cùng với Trương Đạo Lăng, Cát Huyền và Hứa Tốn được tôn xưng làm “Tứ Đại Thiên Sư”.

Tương truyền, Tát Thiên Sư từng vô tình gây thù chuốc oán với Ngọc Xu Hỏa Phủ Thiên tướng Vương Linh Quan, sau đó ông đã dùng đạo hạnh thu phục Vương Linh Quan làm đệ tử. Câu chuyện ấy đã diễn ra như thế nào?

12 năm theo dõi, tìm cơ hội báo thù

Chuyện kể rằng, một ngày Tát Thiên Sư vân du đến huyện Tương Âm, phủ Hành Châu. Ông thấy miếu Thành Hoàng nơi đây ngày ngày khói hương nghi ngút, dân chúng trong vùng dâng đồng nam đồng nữ để tế tự Thần Thành Hoàng. Bắt trẻ nhỏ làm vật hiến tế chẳng phải chính là tà đạo sao? Tát Thiên Sư bèn thi triển pháp thuật, dùng sấm sét và lửa thiêu đốt miếu Thành Hoàng.

Thần Thành Hoàng ngự trong miếu vốn là Vương Linh Quan, tên là Vương Ác, ngay sau đó đã đem chuyện đốt miếu bẩm tấu lên thượng Thần. Thượng Thần nói: “Tát Chân Nhân có thần thông quảng đại, pháp lực vô biên, nhà ngươi sao có thể địch lại ông ta đây? Ngay cả ta cũng không giúp ngươi được, chẳng thà ngươi hãy theo dõi ông ấy, hễ thấy ông ta có ý niệm bất chính thì ngươi hãy dùng kim tiên (roi vàng) đánh chết ông ta, báo mối thù xưa kia, tiền trảm hậu tấu, ta sẽ thay ngươi bẩm báo lên Ngọc Đế”.

Nói xong, thượng Thần liền phái một vị Phù sứ cùng đi với Vương Ác.

Lúc này Tát Thiên Sư vẫn chưa rời khỏi huyện Tương Âm. Nhà họ Cao mang ơn ông đã cứu mạng con trai và con gái nên giữ ông lại để cảm tạ. Cao lão gia chuẩn bị 100 lạng bạc, 100 lạng vàng, 50 thất lụa là gấm vóc cùng với 50 xâu đồng thiếc để báo đáp ơn sâu nghĩa nặng của Tát Thiên Sư. Nhưng Tát Thiên Sư nhất mực chối từ: “Lão gia có tấm lòng như vậy, bần Đạo vô cùng cảm kích. Nhưng nếu ngài cứ nhất định tặng ta số kim ngân tài vật này thì lại không phải là yêu mến ta, ngược lại còn phiền lụy đến ta, vậy nên bần Đạo không thể nhận được”.

Vị Phù sứ thấy vậy liền khen ngợi: “Người này khinh tiền trọng nghĩa, thật là người tốt, người tốt”.

Vương Ác hậm hực nói: “Ngài đừng vội quá khen, sau này nhất định tôi có thể tìm ra khuyết điểm của ông ta, đến lúc ấy tôi sẽ dùng chiếc roi vàng này khiến ông ta phải bỏ mạng”.

Tát Thiên Sư rời khỏi nhà họ Cao đi vân du tứ xứ, Vương Ác vì muốn báo thù nên cũng bám theo ông không rời một khắc. Ngày nọ, Tát Thiên Sư đến nơi điền dã, thấy một nữ nhân đang thu hoạch hoa trái. Vị nữ nhân thấy Đạo sĩ liền cung kính đưa hai trái cây để ông giải khát. Vương Ác vừa thấy liền reo lên: “Nam nữ thụ thụ bất thân, hôm nay ta có thể thưởng cho ông ta một roi được rồi”.

Tát Thiên Sư cúi đầu cảm tạ người phụ nữ và nói: “Xin cô hãy đặt xuống, tôi sẽ tự đến nhận”.

Vừa nói ông vừa lấy trong tay áo ra vài đồng tiền đặt trên mặt đất để tạ ơn. Vị nữ nhân thấy Đạo sĩ nghiêm khắc giữ lễ như vậy nên cũng thuận theo. Sau đó thấy ông chỉ lấy một quả, cô liền hỏi nguyên do. Tát Thiên Sư đáp: “Một quả là đủ rồi, lấy nhiều sẽ tổn hại đến sự liêm khiết, thực là không đáng”.

Phù sứ thấy thế liền khen rằng: “Thật là bậc quân tử hiểu lễ, hiếm có, hiếm có”.

Vương Ác vẫn chưa phục, chỉ nói một câu: “Hôm nay hắn may mắn thoát khỏi roi này, nhưng lần sau hắn sẽ phải chết trong tay ta”.

Một ngày, Tát Thiên Sư có việc cần qua sông, bên bờ sông chỉ thấy một chiếc đò neo đậu mà không có người lái. Ông không còn cách nào khác đành phải tự mình cầm cây sào trúc chèo thuyền sang sông. Vương Ác nhìn thấy, chực giơ cây roi vàng lên sắp đánh và nói: “Lấy vật không hỏi chủ, đi đò không trả tiền, sao xứng đáng tu Đạo?”.

Phù sứ ngăn Vương Ác lại và khuyên ông cứ bình tĩnh quan sát. Tát Thiên Sư chèo đò qua sông, ông đặt tiền lên giữa khoang thuyền rồi chắp tay cung kính, sau đó mới rời đi. Phù sứ ngưỡng mộ khen: “Không vì việc thiện nhỏ mà không làm, người như vậy quả là hiếm thấy, hiếm thấy”.

Vương Ác nói: “Hừ, ta tạm tha cho hắn, lần này ta không đánh nhưng nhất định sẽ không để hắn thoát khỏi lần sau”.

Vương Linh Quan. (Nguồn: baidu)

Hôm ấy Tát Thiên Sư đang trên đường thì đột nhiên trời nổi cuồng phong, mưa lớn rơi xuống như trút. Nơi này đồng không mông quạnh, phía trước không có thôn làng, phía sau cũng chẳng có quán trọ, chẳng còn nơi nào để tá túc. Tát Thiên Sư ngâm mình trong mưa ướt sũng từ đầu đến chân. Vương Ác nhìn thấy thế liền hí hửng nói: “Hắn bị gió thổi mưa dầm như thế, chỉ cần có nửa lời trách mưa mắng gió thì ta sẽ thưởng ngay cho hắn một roi”.

Tát Thiên Sư dấn bước trong mưa, vừa hay gặp một nhóm du khách bước đến, người trong nhóm ai ai cũng buông lời oán thán. Có người cằn nhằn: “Gió thổi mưa rơi thật là không đúng lúc, không đúng lúc chút nào”.

Lại có người than thở: “Nếu tôi là Thần Tiên, nhất định tôi sẽ treo Phong Bá (Thần gió) và Vũ Sư (Thần mưa) lên không trung rồi đánh mỗi người một ngàn roi”.

Tát Thiên Sư thấy vậy liền lên tiếng: “Các vị không nên nói như thế, đây là điều Trời định, không cần oán trách thế làm gì”.

Một du khách nói: “Ông ướt sũng đến mức khắp thân ướt dầm ướt dề, không sợ da dẻ bủng beo sao mà vẫn còn khoan dung được như thế?”.

Tát Thiên Sư đáp: “Mưa to gió lớn sao khuất phục được khách bộ hành, nắng đốt lửa thiêu sao hại được người kiên tâm chịu khổ? Mọi thứ đều là hảo sự, bất tất phải lo sợ như thế làm gì?”.

Lại có người châm chọc: “Mưa mãi không ngớt thế này, chỉ sợ ông không có quần áo mà thay đó thôi”.

Tát Thiên Sư nói: “Hôm nay mưa lớn, ngày mai trời trong xanh, đến lúc đó mặt trời sẽ hong khô quần áo cho tôi. Trời xanh chẳng phải sẽ không phụ lòng chúng ta sao?”.

Trận mưa dài lê thê mãi từ giờ Tỵ đến giờ Ngọ mới chịu dừng. Thiên Sư cởi bỏ y phục phơi khô dưới nắng, trên người chỉ mặc bộ áo ngắn, miệng ngâm nga thơ từ:

“Vũ sậu phong cuồng thiên địa hôn
Trường đồ lữ khách dục tiêu hồn
Nhi kim hỉ đắc dương hòa xuất
Đa tạ thương thiên phúc hựu ân”

Tạm dịch:

Mưa gào gió thét, trời tối tăm
Đường dài lữ khách nỗi thương tâm
Giờ đây vui thấy vầng dương ló
Đa tạ Trời xanh đã gia ân

Phù sứ thấy Tát Thiên Sư không oán trách khi mưa rơi ướt sũng, cũng không tủi phận khi một mình cô đơn lạnh lẽo, đến khi trời nắng lại ngâm thơ cảm tạ ông Trời, liền thở dài nói: “Người này thật tốt, thật tốt, thực là bậc Chân Nhân đắc Đạo”.

Vương Ác dù không nói lời nào nhưng trong lòng vẫn hậm hực, không muốn cúi đầu công nhận.

Ngày khác, Tát Thiên Sư thấy bên đường có một viên minh châu trong suốt, sáng lấp lánh, ông liền nhặt lên phủi bỏ lớp bụi bặm bên ngoài và đút viên ngọc vào trong tay áo. Vương Ác vừa thấy liền giơ roi nói với giọng hả hê: “Không nhặt của rơi trên đường là đạo của người quân tử, vậy mà hắn ta lại điềm nhiên nhặt viên minh châu của người khác mà không thấy xấu hổ. Hôm nay ta không đánh chết hắn thì còn đợi bao giờ?”.

Nhưng lạ chưa, Tát Thiên Sư không vội rời đi mà lại ngồi xuống dốc cỏ chờ đợi. Đợi mãi đợi mãi cũng không thấy có người đến tìm, ông phải đợi trên dốc cỏ suốt cả đêm. Người chủ mất đồ kia phát hiện ra viên minh châu đã không cánh mà bay, nhất thời lo lắng đến mức bật khóc nức nở: “Ta có cái mặc là nhờ viên ngọc đó, có cái ăn cũng nhờ viên ngọc đó, lấy vợ cũng nhờ viên ngọc đó, mua ruộng cũng nhờ viên ngọc đó, làm nhà cũng nhờ viên ngọc đó. Thế mà hôm nay viên ngọc đó đã không còn, ta còn sống làm gì nữa?”.

Anh ta vội vàng men theo đường cũ, hai mắt chăm chú nhìn xuống nền đường. Tát Thiên Sư thấy người này thần trí hoang mang hoảng hốt như thế, đoán là người mất của đi tìm vật quý. Sau khi hỏi rõ ràng mọi chuyện, ông liền trả lại viên minh châu. Người mất đồ vô cùng cảm kích ngỏ lời hậu tạ, nhưng Tát Thiên Sư một xu cũng không lấy. Lần này, Vương Ác vẫn không thể báo thù.

Hôm ấy, Tát Thiên Sư đến một thôn làng nọ thì trời đã tối. Ông bèn ngồi tạm dưới hiên cửa của một ngôi nhà, định bụng sáng sớm hôm sau sẽ rời đi. Bà chủ nhà này vốn là kẻ lẳng lơ, đêm đêm vẫn thường bí mật ra ngoài tư thông với tình nhân. Hôm nay thấy có một Đạo nhân ngồi ngay dưới cửa thì không tiện, bà ta liền bảo đứa hầu nhỏ ra mời ngài vào phòng khách nghỉ ngơi. Tát Thiên Sư thầm cảm ơn gia chủ tốt bụng, nhưng nào đâu hay biết rằng trong nhà chỉ có bà chủ, còn ông chủ thì đi vắng chưa về. Đến đêm, nữ chủ nhân vẫn ngựa quen đường cũ, nghĩ đến vị Đạo nhân trong phòng khách bà ta liền nảy sinh tà ý. Vừa nghĩ, bà ta liền rón rén bước đến…

Phù sứ thấy vậy liền nói với Vương Ác: “Quan ải này thật không dễ vượt qua đâu. Hôm nay, nếu Tát Quân có điều gì không thỏa đáng thì tùy ngài xử trí”.

Tát Thiên Sư không cài then cửa, cũng không hề đề phòng, cứ vô tư nằm nghỉ trên ghế. Nữ chủ nhân liền đẩy cửa bước vào, cử chỉ lả lơi muốn dụ dỗ Đạo nhân làm điều bất chính. Tát Thiên Sư dùng lời thiện chí khuyên nhủ nhưng bà ta không nghe, vẫn cứ sà vào lòng. Thiên Sư không có cách nào khác, đành rút thanh kiếm đeo bên hông ra và quỳ xuống, ông nói: “Nếu nữ thí chủ cứ cố chấp như thế thì chi bằng hãy chặt đầu bần đạo”. Nữ chủ nhân cảm thấy hổ thẹn đành phải bỏ cuộc.

Phù sứ thấy vậy lắc đầu lè lưỡi nói: “Nghiệt chướng lớn như thế này mà Tát Quân vẫn giải quyết được, thật là hiếm có, hiếm có”. Đến lúc này, trong lòng Vương Ác đã có phần tâm phục.

Tranh vẽ Tát Thủ Kiên trong “Liệt Tiên toàn truyện”, thời Minh (Ảnh: Khu vực công cộng)

Từ thù hận đến bội phục, nguyện bái sư học Đạo

Cứ như thế trải qua 12 năm, Phù sứ thấy Tát Thiên Sư đạo hạnh cao khiết, liền khuyên Vương Ác bái ông làm thầy. Vương Ác trong lòng đã tâm phục khẩu phục, liền gật đầu đáp ứng.

Hôm ấy Tát Thiên Sư đến một nơi thấy nước thu trong vắt, liền ngâm một bài thơ:

“Dã thủy liên thiên thu nhất sắc
Tây phong bất động bích ba bình.
Hoằng hoằng bất hứa vi trần cốt,
Trạm trạm do lai triệt để thanh.
Vạn khoảnh lãnh hàm la đại lục,
Nhất xuyên hàn dạng áp đầu thanh.
Nhân tâm nhược thị vô tra chỉ,
Tự tín hung trung ngọc giám minh”

Tạm dịch:

Nước sông liền trời thu một màu
Gió tây chẳng động mặt gương sâu
Trong veo bụi trần không hề nhiễm
Thăm thẳm trong vắt vốn xưa nay
Vạn khoảnh bao la xanh tịch mịch
Một dòng nước lạnh mấy vịt xanh
Nhân tâm hễ chẳng còn tạp loạn
Trong lòng tự có ngọc sáng soi.

Đột nhiên trong dòng nước hiện ra một vị Thần, đó chính là Vương Ác. Vương Ác kể rõ mọi chuyện rồi thành khẩn xin được bái Tát Thiên Sư làm thầy. Tát Thiên Sư vui vẻ đáp ứng, đồng thời đổi chữ Ác thành chữ Thiện và gọi đệ tử là Vương Thiện.

“Lịch Đại Thần Tiên Thông Giám” quyển 21 cũng chép rằng, một ngày Tát Thiên Sư xuống mé sông rửa chân, bỗng thấy dưới nước hiện ra một vị Thần mặc áo giáp vàng, tay trái cầm bánh xe lửa, tay phải cầm roi sắt, nhìn Tát Thiên Sư và nói: “Tôi vốn là Thiên Tiên đại tướng hỏa xa Vương Linh Quan, phục vụ ở điện Linh Tiêu, vâng lệnh Ngọc Đế xuống ngự ở miếu Tương Âm để trừ tà ác giúp dân. Từ khi Chân Nhân đốt ngôi miếu ấy, tôi đã theo ngài suốt 12 năm. Nay thấy ngài công hạnh cao siêu, chẳng bao lâu nữa sẽ được lên Thiên đình nhận chức. Hôm nay tôi nguyện xin theo ngài làm bộ tướng, phụng hành pháp chỉ của ngài”. Kể từ đó Vương Ác thành tâm theo Tát Thiên Sư tu Đạo.

“Nhân tâm sinh nhất niệm, thiên địa tận giai tri”. Trên đầu ba thước có Thần linh, mọi hành vi và ý niệm của mỗi người đều có Thần giám sát, hơn nữa còn ghi chép hết thảy mọi việc trong đời người vào sách trời, lấy đó làm căn cứ để thưởng thiện phạt ác. Người tốt sẽ được ban phúc báo, kẻ xấu sẽ bị giáng tai ương. Thiện niệm của mỗi người không chỉ mang đến điềm lành, hóa giải oán cừu, mà còn có sức mạnh cảm hóa lòng người. Tâm tồn giữ thiện niệm, lấy khổ làm vui, đề cao tâm tính, sinh mệnh cũng nhờ đó mà sẽ được thăng hoa...

(Nguồn tư liệu: “Tát Chân Nhân đắc Đạo chú tảo ký”, thời Minh)

Theo Tâm Liên - Epoch Times
Minh Hạnh biên dịch



BÀI CHỌN LỌC

12 năm tìm cách báo thù, vì sao phút cuối lại xóa bỏ oán cừu, bái làm tôn sư?