Ấu Học Quỳnh Lâm - Bài 7: Bồng Lai Nhược Thủy

Giúp NTDVN sửa lỗi

Về sau, các nhà văn như Cổ Long, Kim Dung, đều đã sử dụng đến cụm từ này. Bởi vì, nghe nhiều nên thuộc. Trong kinh Phật từ sớm đã có ghi chép về cụm từ này.

(Xem lại Bài 1; Bài 2; Bài 3; Bài 4; Bài 5; Bài 6; )

Nguyên văn chữ Hán

蓬萊、弱水,惟飛仙可渡;方壺、員嶠,乃仙子所居。

Hán Việt

Bồng Lai, Nhược Thủy, duy phi Tiên khả độ; Phương Hồ, Viên Kiêu, nãi Tiên tử sở cư.

Bính âm

Péng lái, ruò shuǐ, wéi fēi xiān kě dù; fāng hú, yuán qiáo, nǎi xiān zǐ suǒ jū.

Giải thích từ ngữ

(1) 蓬萊 Bồng Lai: Tương truyền đây là một trong những ngọn núi Thần.

(2) 弱水 Nhược Thủy: Nước chảy quanh núi Bồng Lai, nước không có lực nâng, ngay cả lông vũ cũng không thể nổi lên được. Người bình thường không thể vượt qua và tiếp cận núi Bồng Lai được.

(3) 方壺、員嶠 Phương Hồ, Viên Kiêu: Ngọn núi Thần trong truyền thuyết.

Dịch nghĩa

Núi Bồng Lai, nước Nhược Thủy xa xôi khó mà băng qua, chỉ có Thần Tiên mới bay đến đó được. “Phương Hồ, Viên Kiêu” là nơi Tiên nhân cư trú.

"Cung điện Bồng lai". (Phạm vi công cộng)
Tranh "Cung điện Bồng lai" của Lý Chiêu Đạo đời Đường (Phạm vi công cộng)

Đọc sách bút đàm

Trong lịch sử, Bồng Lai Nhược Thủy luôn xuất hiện trong các bài thơ và tiểu thuyết, nổi tiếng nhất là “Hồng Lâu Mộng” có đề cập đến “Nhược Thủy tam thiên, ngã chỉ thủ nhất biều ẩm” nghĩa là “nước Nhược Thủy sâu ba nghìn dặm, ta chỉ lấy một gáo để uống”. Câu nói này đã trở thành lời tỏ tình của các cặp nam nữ. Câu “Nhược Thuỷ tam thiên” này vì thế rất nên thơ. Nhưng nếu bạn chưa đọc cuốn "Ấu Học Quỳnh Lâm" này, bạn sẽ không thể hiểu được nguồn gốc của câu văn ấy.

Trong cuốn “Sơn Hải Kinh” có ghi chép: Phía bắc Côn Lôn có nước, sức mạnh của nó không nâng nổi ngọn cỏ, do đó có tên là Nhược Thuỷ. Núi Côn Lôn là nơi ở của các vị Thần Tiên thời cổ đại, Nhược Thuỷ ở đây ám chỉ con sông của Thần giới. Khi nói đến sông Lưu Sa trong "Tây Du Ký", liền xuất hiện cách nói “Tam thiên Nhược Thủy" rằng: "Lưu Sa rộng tám trăm dặm, Nhược Thủy sâu ba nghìn dặm, lông ngỗng cũng không thể nổi, hoa lau nhất định chìm”. Câu nói này nhấn mạnh rằng Nhược Thủy không phải là con sông mà người bình thường có thể qua được.

Đến thời nhà Tống, Tô Thức có câu "núi Bồng Lai không thể đến được, nước Nhược Thủy sâu 3 vạn dặm". Trong “Hồng Lâu Mộng”, cũng có cụm từ “tam thiên Nhược Thuỷ”.

Về sau, các nhà văn như Cổ Long, Kim Dung, đều đã sử dụng đến cụm từ này. Bởi vì nghe nhiều nên rất quen thuộc. Trong kinh Phật từ sớm đã có ghi chép về cụm từ này.

Tương truyền Đức Phật từng gặp một người rất phiền muộn, Đức Phật biết người đó có một cuộc sống khốn khổ, nên đã hỏi người đó rằng: “Trong con mắt của thế tục, ông có quyền có thế, có người vợ yêu thương. Vậy tại sao ông vẫn không vui?“

Người này trả lời: “Chính vì điều này, tôi không biết phải chọn lấy và buông bỏ như thế nào”.

Đức Phật mỉm cười và kể cho ông nghe một câu chuyện: Một hôm, gặp một du khách đang rất khát nước, chỉ còn thoi thóp, Đức Phật thấy thương nên đã đặt một cái hồ trước mặt người đó, nhưng ông ấy lại không đến uống một giọt nước. Đức Phật thấy lạ quá bèn hỏi tại sao? Anh ta trả lời, có quá nhiều nước trong hồ, mà dạ dày của anh rất nhỏ, không thể uống hết trong một lần, chi bằng không uống một chút nào.

Kể xong câu chuyện, Đức Phật chỉ dẫn cho người không biết lựa chọn lấy và buông bỏ thế nào này rằng: "Hãy nhớ rằng, trong một đời người, ông có thể gặp nhiều điều tốt đẹp, nhưng ông chỉ cần dụng tâm nắm chắc lấy một thứ trong đó là đủ rồi. Nhược Thuỷ sâu ba nghìn dặm, chỉ cần lấy một gáo uống”.

Xem ra câu nói, "Nhược Thuỷ sâu ba nghìn dặm, chỉ cần lấy một gáo uống” đã xuất hiện từ rất sớm trong kinh Phật. Mục đích ban đầu là không phải nói đến tình yêu giữa nam và nữ, mà để khuyên con người biết đủ và trân quý những gì ở trước mắt, chớ có suy nghĩ sai lầm.

Thực ra trong "Hồng Lâu Mộng", có hai lần nhắc đến Nhược Thủy, lần thứ nhất là hồi thứ hai mươi lăm. Trong đó miêu tả về một Đạo sĩ què: "Một chân cao một chân thấp, toàn thân dơ dáy dính bùn, người gặp hỏi nhà ở đâu? "Ở phía Tây Bồng Lai Nhược Thuỷ" . Nhược Thuỷ ở đây tức là nguyên ý, dùng để chỉ một nơi xa xôi của Thần Tiên mà không thể đến được. Lần thứ hai xuất hiện từ này là hồi thứ chín mươi mốt, Bảo Ngọc vì muốn an ủi Đại Ngọc đã nói rằng: "Cho dù Nhược Thủy sâu ba nghìn dặm, tôi cũng chỉ lấy một gáo uống". Bảo Ngọc sử dụng điển cố này để thể hiện sự chân thành của mình với Đại Ngọc. Nghĩa là có nhiều phụ nữ xinh đẹp đến đâu, Đại Ngọc là người duy nhất trong trái tim ta.

Bồng Lai Tiên cảnh
Bức tranh "Bồng Lai Tiên cảnh" của Viên Diệu đời Thanh (Phạm vi công cộng)

Vì vậy, "Nhược Thủy tam thiên" có thể lý giải là những sự vật rốt đẹp nhiều mênh mông như Thiên Hà Nhược Thủy. Lấy một gáo có thể lý giải là không tham lam mà biết đủ, hoặc không lòng đứng núi này nhìn núi nọ, nên trân trọng những người trước mặt, và tất cả những thứ hiện đang có.

Đọc cuốn "Ấu Học Quỳnh Lâm", bạn có thể biết những từ ngữ và các tác phẩm diễn đạt trong văn học đến từ đâu, tại sao chúng được sử dụng theo cách này. Đối với tư tưởng và tình cảm của cổ nhân chúng ta nên có cách lý giải sâu sắc, mọi thứ đều có nguồn gốc văn hoá từ xa xưa của nó, thì bạn cũng có thể linh hoạt sáng tạo ra nhiều điều mới lạ.

Còn về “Phương Hồ, Viên Kiêu” mời các bạn xem câu chuyện dưới đây.

Kể chuyện

Truyền thuyết về năm ngọn núi Tiên

“Liệt Tử - Thang Vấn" có ghi chép rằng, tại phía Đông xa xôi của Bột Hải có một thung lũng nằm trên mặt biển, được gọi là "Quy Khư". "Quy Khư" sâu không thấy đáy. Tương truyền, có năm ngọn núi Thần ở trong đó, tên là "Đại Dư", "Viên Kiêu", "Phương Hồ", "Doanh Châu" và "Bồng Lai". Mỗi ngọn núi Tiên rất rộng lớn và dốc đứng, chiều cao và chu vi đều là ba vạn dặm, đỉnh núi bằng phẳng rộng 9 nghìn dặm, khoảng cách giữa núi với núi là vạn dặm.

Mỗi ngọn núi Tiên đều có cung điện làm bằng vàng và lan can làm bằng bạch ngọc. Trên núi Tiên có nhiều cây lạ mọc đầy châu ngọc rất đẹp, còn kết thành quả Tiên trường sinh bất lão, khắp nơi đều có chim muông quý hiếm. Các vị Thần Tiên đều sinh sống ở đây, mặc y phục trắng tinh, uống suối ngọt, ăn quả Tiên, bay lượn tự do khắp nơi, thăm viếng lẫn nhau.

Tuy nhiên, năm ngọn núi Tiên bồng bềnh trên biển, thường bị sóng đánh trôi dạt, không thể ổn định. Về việc này, các vị Thần Tiên rất buồn khổ, đã báo cáo lên Thiên Đế. Thiên Đế cũng rất lo lắng núi Tiên sẽ trôi đến các địa phận ở phía Tây, như thế các vị Thần Tiên sẽ không còn nơi để ở. Thiên Đế ra lệnh cho Hải Thần Ngu Cường (cũng là Phong Thần) phái mười lăm con ngao khổng lồ đến Quy Khư để cõng những ngọn núi Tiên này. Những con ngao khổng lồ này được chia thành năm nhóm, mỗi nhóm con, chịu trách nhiệm ổn định các ngọn núi Tiên; thông thường một con ngao đảm nhiệm một ngọn núi, còn hai con ngao chờ phía sau, luân phiên sáu vạn năm một lần. Bằng cách này, năm ngọn núi Tiên đã ổn định trở lại.

Ngày tháng êm đềm trôi qua thật lâu, thật lâu, một ngày nọ, một người cao to đến từ Long Bá Quốc đột nhiên chạy đến Quy Khư để câu cá. Anh ta bước chân, chỉ mấy bước là đã đi hết lượt năm ngọn núi Tiên. Anh ta thấy dưới mỗi ngọn núi tiên đều có ba con ngao khổng lồ, anh một mạch câu liền sáu con ngao khổng lồ, rồi vác trên quay lưng chạy về Long Bá Quốc. Kết quả là hai ngọn núi Tiên "Đại Dư", "Viên Kiêu" đã trôi dạt đến Bắc cực rất xa và chìm xuống đáy biển, thế là hàng ức vị Thần đều phải di chuyển đi nơi khác.

Thiên Đế hay tin, ông rất tức giận đã cắt giảm số đất đai, và giảm đi chiều cao của người dân trong Vương quốc Long Bá, thế nhưng chiều cao của họ vẫn còn vài chục trượng!

Từ đó về sau, Tiên Sơn chỉ còn lại ba ngọn núi là "Phương Hồ", "Doanh Châu" và "Bồng Lai".

Huy Hải
Theo Epochtimes



BÀI CÙNG CHUYÊN ĐỀ

BÀI CHỌN LỌC

Ấu Học Quỳnh Lâm - Bài 7: Bồng Lai Nhược Thủy