Bí ẩn thuật xem số mệnh theo giờ sinh: Bát tự - 8 chữ định đoạt đời người (Kỳ 1)

Giúp NTDVN sửa lỗi

Trạng trình Nguyễn Bỉnh Khiêm được các nhà mệnh lý học Trung Hoa đương thời khen ngợi: “An Nam lý số hữu Trình Tuyền”. Vậy thuật toán mệnh Bát Tự là gì? Tại sao dùng Bát Tự giờ sinh lại có thể tính toán ra vận mệnh cả đời người?

Dùng năm tháng, ngày giờ để suy đoán hung cát một đời người, đó chính là toán mệnh theo giờ sinh Bát Tự. Thuật toán mệnh cổ đại đã xuất hiện từ thời kỳ Hán Ngụy, Trung Quốc, đến Lý Hư Trung đời Đường thì chính thức xác lập hệ thống, sau này được Từ Tử Bình đời Tống Sơ phát triển hoàn thiện thêm, được các nhà mệnh lý học đời sau học tập áp dụng rộng rãi.

Bát Tự hay Tứ Trụ, là một môn học thật có nguồn gốc từ Trung Hoa, chuyên dùng để dự đoán vận mệnh của đời người. Chỉ dựa trên bốn trụ: Năm, Tháng, Ngày và Giờ sinh, mỗi trụ bao gồm hai chữ, tạo thành Tám Chữ, mà một thầy xem số cao tay có thể đọc ra được những đặc điểm trong tính cách, quan hệ gia đình, sức khỏe, công danh, sự nghiệp của một con người. Vì sao lại có sự việc kì lạ như vậy?

Bát Tự, Tứ Trụ là gì?

Kể từ rất xa xưa, cổ nhân đã có nhiều phương pháp khác nhau để dự đoán tương lai. Khác với những nhà tiên tri, ngoại cảm, những người có những khả năng đặc biệt, có thể nhìn thấy, cảm nhận được những điều mà người thường không thể, những phương pháp này đều là dựa trên nền tảng khoa học để mà nhận biết và suy đoán. Ví dụ như thuật chiêm tinh của người Ấn Độ, thuật phong thủy, thuật tử vi, kinh dịch của người Trung Quốc v.v... tất cả đều là dựa vào những căn cứ đến từ tự nhiên: sự vận động của các hành tinh, ngôi sao trên bầu trời hay phương vị, sự sắp đặt của các sự vật trên mặt đất.

Qua những phương pháp này chúng ta đều có thể nhận ra một điểm chung, đó là mối liên hệ không thể tách rời giữa tự nhiên và con người. Hay nói cách khác, đó là quan niệm Thiên Địa Nhân của người xưa: con người là một phần từ nằm giữa trời và đất, mọi vận động, thay đổi của trời đất đều có tác động trực tiếp lên con người. Vậy có thể căn cứ vào sự vận hành của thiên nhiên mà suy ra sự đối ứng lên con người.

Nếu được hỏi thì câu trả lời là: Phần tinh túy nhất của trí tuệ cổ nhân Trung Hoa có lẽ chính là học thuyết Âm Dương Ngũ Hành. Theo đó thì vạn sự vạn vật trong vũ trụ đều được cấu tạo từ Ngũ Hành: Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ. Mặt khác trong mỗi hành, mỗi sự vật, hiện tượng đều đồng thời tồn tại hai mặt đối lập: Âm và Dương. Ngũ Hành và Âm Dương luôn tạo nên sự liên kết cũng như sự đối lập, chúng không ngừng hỗ trợ, kiềm toả nhau, tạo nên sự cân bằng của cuộc sống, sự tuần hoàn không ngừng của vũ trụ.

Âm Dương Ngũ Hành có trong tất cả, và tất nhiên, con người cũng không phải ngoại lệ. Môn Bát Tự chính là dựa vào Âm Dương, Ngũ Hành trong Năm, Tháng, Ngày và Giờ sinh của một người để đoán biết tính cách, sở trường, sở đoản, cũng như dựa và sự biến thiên của Ngũ Hành, Âm Dương trong hậu vận, trong môi trường sống của người đó để dự đoán vận mệnh, họa phúc, thành bại, hưng suy.

Ngũ hành tương sinh và tương khắc theo Khoa học Trung Quốc cổ đại.
Ngũ hành tương sinh và tương khắc theo Khoa học Trung Quốc cổ đại.

Quan hệ giữa Âm dương Ngũ hành và giờ sinh

Vào thời điểm một con người chào đời, chỉ trong một tích tắc, khí Âm Dương của vũ trụ đã hội tụ mà hình thành xong Ngũ Hành nội tại của người ấy. Bốn trụ, tám chữ trong khoảnh khắc đó cũng xác định và đã được gắn liền với vận mệnh cả một đời của đứa trẻ. Vì vậy thời điểm chúng ta ra đời hoàn toàn không phải ngẫu nhiên mà là đã có định số từ trước. Nếu như cha mẹ cố tình chọn ngày giờ đẹp để sinh con thì lá số đó sẽ không còn chính xác nữa. Đây đều là do duyên tiền định, họa phúc của đời người là do đức và nghiệp tích tồn từ nhiều kiếp trước tạo thành. Không phải Tứ Trụ quyết định phúc hay họa, mà là nghiệp duyên thông qua Tứ Trụ mà thể hiện họa hay phúc mà thôi.

Kim Mộc Thủy Hỏa Thổ có trong vạn sự vạn vật, dễ thấy nhất là trong bốn mùa của một năm, cũng như trong mười hai canh giờ của một ngày. Để phân định cho rõ ngũ hành trong một lá số, người ta làm như sau. Mỗi trụ của Năm, Tháng, Ngày và Giờ được chia ra trên và dưới: thiên can và địa chi. Mỗi năm, mỗi tháng, mỗi ngày, mỗi giờ lại tương ứng với mười can và mười hai chi khác nhau.

Mười can gồm có: Giáp, Ất, Bính, Đinh, Mậu, Kỷ, Canh, Tân, Nhâm, Quý.

Trong đó Giáp, Ất thuộc hành Mộc, Bính Đinh thuộc hành Hoả, Mậu Kỷ thuộc hành Thổ, Canh Tân hành Kim, Nhâm Quý là hành Thủy.

Mười hai chi bao gồm: Tý Sửu Dần Mão Thìn Tỵ Ngọ Mùi Thân Dậu Tuất Hợi. Trong đó Dần Mão thuộc hành Mộc, Ty. Ngọ hành Hỏa, Thân Dậu hành Kim, Hợi Tý hành Thủy, Tuất Sửu Thìn Mùi thuộc hành Thổ.

Những sự phân chia, quy ước này hoàn toàn không phải ngẫu nhiên hay võ đoán, chúng đều là dựa trên sự quan sát và cảm nhận vô cùng sâu sắc của cổ nhân qua nhiều thế hệ đối với tự nhiên.

Ví dụ như ba tháng đầu năm là Dần, Mão, Thìn. Đây là mùa xuân, là thời điểm cây cối đâm chồi nảy lộc, nó thuộc hành Mộc.

Tương tự như vậy, Ty, Ngọ, Mùi là mùa Hè - hành Hỏa; Thân, Dậu, Tuất là Thu - Kim, Hợi Tý Sửu là Đông - Thủy. Bốn tháng cuối mỗi mùa: Thìn, Mùi, Tuất, Sửu là thời điểm chuyển giao, chúng thuộc về hành Thổ.

Để xác định độ mạnh yếu của Ngũ Hành trong bản mệnh, điều đầu tiên cần xét đến đó là tháng sinh. Điều này cũng dễ hiểu, bởi vì thời điểm nào trong năm là yếu tố quan trọng nhất quyết định xem khí Ngũ Hành mạnh hay yếu. Mùa Xuân thì Mộc vượng, mùa Hè thì Hỏa vượng, mùa Thu khí Kim vượng, mùa Đông khí Thuỷ mạnh. Đây cũng là điều hiển nhiên, là quy luật vận hành của bốn mùa trong năm.

Nói đến Ngũ Hành, không thể không nhắc đến lý tương sinh tương khắc.

Mộc sinh Hỏa, Hỏa sinh Thổ, Thổ sinh Kim, Kim sinh Thủy, Thủy sinh Mộc.

Mộc khắc Thổ, Thổ khắc Thủy, Thủy khắc Hỏa, Hỏa khắc Kim, Kim khắc Mộc.

Bất kể Hành nào cũng nằm trong mối quan hệ sinh, khắc, được sinh, bị khắc với bốn Hành còn lại.

Năm thuộc tính Kim Mộc Thuỷ Hoả Thổ tổng hợp lại mà tạo nên một con người. Ngũ Hành tương ứng với ngũ Đức. Mộc chủ về Nhân, Hỏa chủ về Lễ, Kim chủ về Nghĩa, Thuỷ chủ về Trí,Thổ chủ về Tín. Đây cũng là năm Đức tính căn bản để nói lên tính cách của một con người.

Ngũ Hành trong bốn trụ của mỗi người đều khác nhau, vì vậy tính nết của con người cũng chẳng ai giống ai cả. Dựa vào sự nhiều hay ít, sự phối hợp của Ngũ Hành trong Bát Tự để đoán biết tính cách của một người, đó là điều hoàn toàn có thể.

Trong Bát Tự chuộng nhất là Ngũ Hành cân bằng. Người có sự cân bằng trong Ngũ Hành là người có sự hài hòa trong tính cách. Ngược lại, sự vượt trội của một hay nhiều thuộc tính so với các thuộc tính còn lại sẽ tạo nên những cực đoan trong cá tính của mỗi người. Chúng ta chủ yếu đều nằm trong trường hợp thứ hai, chỉ khác nhau là mất cân bằng bao nhiêu, cực đoan nhiều hay ít mà thôi.

Thuộc tính của Mộc là nhân từ, dễ cảm thông, nhưng nhiều Mộc quá thì thành ra tự do, tuỳ tiện.

Thuộc tính của Hoả là lễ phép, sôi nổi, hoà đồng. Nhưng nhiều Hoả quá thì thành ra sốc nổi, nóng tính, không giỏi nhẫn.

Thuộc tính của Kim là hào hiệp, trượng nghĩa. Nhưng nhiều Kim quá thì lại thành ra phô trương, sĩ diện.

Thuộc tính của Thuỷ là thông minh, mưu trí. Nhưng nhiều Thuỷ quá thì thành ra lạnh lùng, thủ đoạn.

Thuộc tính của Thổ là thật thà, đáng tin cậy. Nhưng nhiều Thổ quá thì lại thành ra ù lì, chậm chạp.

Ngũ Hành còn tương ứng với Ngũ Tạng. Mộc ứng với Gan. Hỏa ứng với Tim. Kim ứng với Phổi. Thủy ứng với Thận. Thổ ứng với Tỳ.

Năm âm chính của âm nhạc tương ứng với ngũ hành, ngũ tạng, năm phương hướng và mùa màng. (Ảnh: The Epoch Times)

Nhìn Ngũ Hành trong lá số cũng đoán biết được sức khoẻ và bệnh tật. Thuộc tính nào quá nhiều hay quá ít cũng đều có ảnh hưởng tới nội tạng tương ứng. Ví dụ như Mộc quá mạnh thì gan có vấn đề, đồng thời Mộc khắc Thổ, cũng dẫn đến Tỳ yếu, đường tiêu hoá cũng không khỏe mạnh. Vật cực thì tất phản, cái gì nhiều quá cũng sẽ trở thành cực đoan, không còn tốt nữa. Chính vì vậy, Tứ Trụ cân bằng cả năm hành là quý nhất nhưng cũng rất hiếm gặp.

***

Qua một vài những kiến thức căn bản được giới thiệu ở trên, chúng ta đã hiểu được phần nào sự thâm sâu của trí tuệ cổ nhân, cũng như có thêm hiểu biết về thuyết định mệnh, thứ từ trong cõi vô hình luôn từng phút từng giây không ngừng tác động lên cuộc đời của mỗi chúng ta.

Trong tập hai của video về Bát Tự, chúng tôi sẽ tiếp tục gửi đến các bạn những kiến thức thú vị về môn học dự đoán này. Ngoài ra còn có 3 câu hỏi quan trọng nhất:

Nếu những điều chúng tôi đang nói là hoàn toàn chân thực, vậy thì mục đích cuối cùng của những môn học dự đoán vận mệnh này là gì?

Nếu như vận mệnh đều đã có định số từ trước, vậy thì việc dự đoán đúng còn có ý nghĩa gì nữa khi chúng ta không thể thay đổi được tương lai của mình?

Có phương thức nào thay đổi số mệnh, tương lai không?

Để tìm thấy câu trả lời cho những thắc mắc đó, xin mời các bạn đón xem tập hai của chúng tôi.

Đức Lân



BÀI CHỌN LỌC

Bí ẩn thuật xem số mệnh theo giờ sinh: Bát tự - 8 chữ định đoạt đời người (Kỳ 1)