Chuyện Từ Thức nước Việt lấy vợ tiên [Radio]

Giúp NTDVN sửa lỗi

Từ Thức vì sao có thể lấy vợ tiên? Câu chuyện ly kỳ này có kết thúc như thế nào và dấu tích để lại của nó ở thế gian ra sao? Dưới đây là nội dung câu chuyện

Trong năm Quang Thái đời nhà Trần, có người ở Hóa Châu tên là Từ Thức, vì có cha làm đại thần trong triều nên được bổ làm Tri huyện Tiên Du. Bên cạnh huyện có một ngôi chùa danh tiếng, trong chùa trồng một cây mẫu đơn cổ thụ, đến kỳ hoa nở rợp cả sân chùa thì người các nơi đến xem đông như hội. Tháng 2 năm Bính Tý (năm 1396), người ta thấy có cô con gái tuổi chừng đôi tám, mặt hoa da phấn, nhan sắc xinh đẹp tuyệt vời, đến hội ấy xem hoa. Cô gái vin một cành hoa, không may cành giòn mà gãy, bị người coi hoa giữ lại, chiều đã muộn mà không cách nào đi được. Từ Thức cũng có mặt ở đám hội, thấy vậy động lòng thương, bèn cởi tấm áo cừu gấm trắng, đưa vào tăng phòng để chuộc lỗi cho người con gái ấy. Mọi người đều khen quan huyện là một người hiền đức.

Song Từ Thức vốn chán đường công danh, lại tính hay rượu, ham ngâm thơ gảy đàn, nên việc sổ sách bỏ ùn cả lại, thường bị quan trên quở trách rằng:

- Thân phụ thầy làm đến Đại thần mà thầy không làm nổi một chức Tri huyện hay sao!

Từ thầm nghĩ cứ thế này cũng không ổn, chẳng thà treo ấn từ quan, về vui với non xanh nước biếc. Bèn nghĩ sao làm vậy. Rồi vì vốn yêu cảnh hang động ở huyện Tống Sơn xứ Thanh, nên dựng tạm ngôi nhà tại đấy để ở, đi đâu cũng có một thằng nhỏ hầu cận, một bầu rượu, một túi thơ trong đựng toàn thơ của Đào Uyên Minh. Thường gặp những nơi nào sơn kỳ thủy tú thì đem rượu ra uống, lúc ngân nga ngâm vịnh, khi phóng bút đề thơ. Một hôm Từ Thức dậy sớm trông ra bể Thần Phù ở phía ngoài xa vài chục dặm, thấy có đám mây ngũ sắc đùn đùn kết lại như một đóa hoa sen mọc lên, vội nhờ người chèo thuyền đưa ra thì thấy một trái núi rất đẹp. Từ kinh ngạc bảo lái thuyền rằng:

- Ta đã từng lênh đênh trên chốn giang hồ, dạo khắp thắng cảnh miền đông nam, mắt thấy không ít sự lạ, song không biết trái núi này từ đâu lại mọc ra trước mắt, ý giả là non tiên rụng xuống, vết thần hiện ra đây chăng? Sao trước không mà nay lại có?

Xian, Trung Quốc, Á, Cảnh Quan, Thiên Nhiên, Mountain
Ảnh minh họa: Pixabay

Bèn buộc thuyền lên bờ thì thấy những vách đá cao vút nghìn trượng, sừng sững thẳng đứng như từ chối khách không mời, nếu chẳng có cánh mà bay lên, thì không có cách nào xem ngắm. Từ nhân đó đề một bài thơ lên vách đá, đề thơ xong, lừng chừng nửa ở nửa về. Chợt thấy ở trên vách đá bỗng nứt toác ra một cái hang, hình tròn mà rộng độ một trượng. Dợm bước đi vào, vừa được mấy bước thì cửa hang đã đóng sập lại tối tăm mù mịt như sa vào cái vực đen tối. Bụng nghĩ phen này đã hết đường lui, lại lấy tay sờ soạng tìm đường, thấy trên vách hang rêu bám ẩm ướt dẫn vào một khe nhỏ ngoằn ngoèo. Cứ như vậy mò mẫm đi chừng hơn một dặm thì thấy có đường đi ngoi lên, ánh sáng đã lờ mờ. Càng bám víu trèo lên thấy càng rộng rãi sáng sủa. Lên đến ngọn núi thì bầu trời đột ngột mở toang ra, ánh sáng rực rỡ tràn vào. Chung quanh toàn là những lâu đài nguy nga, mây xanh ráng đỏ, khắp nơi là hoa thơm cỏ lạ. Từ nghĩ nếu không phải là chỗ đền đài thờ phụng, tất là cái xóm của những bậc lánh đời, còn mình phải chăng giống ngư phủ ở Đào Nguyên hay Lưu Nguyễn nhập Thiên Thai? Bỗng chợt thấy có hai người con gái áo xanh bảo nhau rằng:

- Lang quân nhà ta đã đến!

Đoạn họ vội chạy vào báo tin, một lúc đi ra nói rằng:

- Phu nhân chúng tôi sai mời chàng vào chơi.

Từ đi theo họ vào, vòng quanh một bức tường gấm, vào trong một khung cửa son, thấy những tòa cung điện bằng bạc đứng sững, có những tấm biển đề: "Điện Quỳnh Hư", "Gác Dao Quang". Trên gác có bà tiên áo trắng, ngồi trên một cái giường thất bảo, bên cạnh đặt một chiếc giường nhỏ bằng gỗ đàn hương, mời Từ lên ngồi và bảo rằng:

- Tính hiếu kỳ của chàng đã thành chứng nghiện. Sự vui sướng trong một chuyến đi chơi này, kể cũng đã thỏa nguyện bình sinh. Nhưng mối duyên gặp gỡ chàng có còn nhớ gì không?

Từ thưa rằng:

- Tôi là một kẻ dật sĩ ở Tống Sơn. Một cánh buồm gió, một lá thuyền nan, phóng lãng giang hồ thích đâu đến đấy. Nào có biết chốn này lại có Tử phủ Thanh đô! Lần mò lên được tới đây, chẳng khác như mình đã mọc cánh mà bay lên đến cõi tiên vậy. Song lòng trần mờ tối, chưa biết tiền đồ ra làm sao. Dám xin chỉ bảo rõ ràng cho tôi được hiểu.

Bà tiên cười bảo:

- Chàng biết sao được. Đây là núi Phù Lai, động tiên thứ 6 trong 36 động, bồng bềnh ở ngoài bể cả, dưới không có bám bíu, như hai núi La Phù tan hợp theo với sóng rợn, mà tôi tức là địa tiên ở Nam nhạc là Ngụy phu nhân. Vì thấy chàng là người cao nghĩa sẵn lòng cứu giúp sự nguy khốn cho người, nên mới dám làm phiền mời chàng đến đây.

Trương Gia Giới, Cảnh, Du Lịch, Mountain
Ảnh minh họa: Pixabay

Bà tiên nhân đưa mắt cho hầu gái để bảo gọi một cô tiên ra, Từ liếc nhìn trộm, chính là người bẻ gãy cành hoa ngày trước. Bà tiên trỏ bảo rằng:

- Đứa con tôi đây tên là Giáng Hương, ngày trước gặp phải cái nạn trong khi đi xem hoa, nhờ chàng cứu gỡ, ơn ấy khôn quên, nay muốn cho nó kết duyên để báo đền ơn trước.

Bèn ngay đêm ấy đốt đèn mỡ phượng, rải đệm vàng rồng, để hai người làm lễ giao bái. Ngày hôm sau quần tiên đến mừng, có người mặc áo gấm cưỡi con ly từ đàng bắc xuống, có người bận xiêm lụa cưỡi rồng từ phía nam lên, có người đi kiệu ngọc, có người cưỡi xe gió, đồng thời lại họp. Tiệc yến đặt ở tầng thượng trên gác Dao Quang, buông rèm câu ngọc, rủ trướng móc vàng, phía trước đặt một cái ghế bành bằng ngọc lưu ly mà để không. Quần tiên vái chào nhau cùng ngồi ở những ghế bên tả; Từ Thức thì ngồi ở cái giường bên hữu. Ngồi xong, có tiếng truyền hô là “Kim tiên đã đến” (1), mọi người đều bước xuống đón cúi lạy chào. Đoạn rồi lên gác tấu nhạc. Tiệc bày mâm bằng mã não, đĩa bằng ngọc thạch, các món ăn đều rất kỳ lạ, lại có những thứ rượu kim tương, ngọc lễ, mùi hương đưa lên thơm nức, dưới trần không bao giờ có được cái của quý như vậy. Một người áo gấm trắng nói:

- Chúng tôi chơi ở chốn này mới tám vạn năm, mà bể Nam đã ba lần tung bụi. Nay chàng từ xa tới đây, không vì tiên phàm mà cách trở, ba sinh hương lửa, tưởng cũng không phụ, đừng nên cho chuyện thần tiên là câu chuyện hoang đường.

Rồi có những người trẻ nhỏ, chia ra từng lớp mà múa điệu Lăng Ba. Đoạn, phu nhân mời tiệc. Giáng Hương rót rượu. Người bận xiêm lụa nói đùa rằng:

- Nương tử hôm nay sắc diện hồng hào khác hẳn hôm trước. Người ta bảo ngọc nữ không chồng, câu ấy hỏi có tin được không?

Quần tiên đều cười, duy người mặc áo xanh buồn rầu không vui mà nói rằng:

- Mối duyên của cô em đây, thật cũng là tốt đẹp. Song nghĩ cái giá băng ngọc ở trên mây, mà đi kết mối tóc tơ ở cõi thế, vạn nhất tiếng tăm vỡ lở, thiên hạ chê cười, quần tiên chúng ta e không khỏi mang tiếng lây được.

Bà Kim tiên nói:

- Giáng Hương vốn đã thành tiên, nhưng còn cái nợ ba sinh chưa trả hết, nên mới có cái cuộc hội ngộ ở sân chùa, dẫn đến mối duyên ngày hôm nay. Âu cũng là ở đời không có gì ngẫu nhiên. Tân lang ở chốn nhân gian mới lên, ta không nên bàn phiếm những câu chuyện khác làm rối lòng dạ người ta.

Bà phu nhân nói:

- Tôi nghe tiên may gặp chứ khôn tìm, đạo nhờ duyên chứ khó cầu. Thuở hồng hoang ở thế gian nhân Thần đồng tại, thì người và tiên sống lẫn với nhau. Càng về sau trời và đất càng xa cách, tiên thánh càng ít lai vãng đến chốn người. Tuy vậy, những cuộc gặp gỡ hiếm lạ cũng vẫn có: xưa như Ngưu Lang gặp Chức Nữ, Hằng Nga lấy Hậu Nghệ. Đến thời Xuân Thu có chuyện Lộng Ngọc lấy Tiêu Sử rồi cưỡi rồng về trời, sang đời Hán, có Lưu Thần Nguyễn Triệu nhập Thiên Thai, đời Tấn có ngư phủ lạc Đào Nguyên… Ở nước Nam này cũng đã chẳng từng có chuyện Tiên Dung - Chử Đồng Tử bạch nhật phi thăng hay Tản Viên Sơn Thánh lấy Ngọc Hoa công chúa. Khi còn tơ tình vương vấn thì tiên cũng như người. Khi lòng trần đã dứt thì duyên trần mới đoạn. Có gì kỳ lạ đâu.

Cuộc hội ngộ của Ngưu Lang Chức Nữ trên Cầu Ô Thước. Tác phẩm nghệ thuật trong hành lang dài của Di Hòa viên, Bắc Kinh. (Phạm vi công cộng)

Mọi người cùng cười rất vui vẻ. Rồi đến lúc mặt trời gác núi, khách khứa ra về. Từ đùa bảo Giáng Hương rằng:

- Thì ra tất cả các cõi trời đều có chuyện phối ngẫu. Cảnh khác nhưng tình cũng giống nhau, nghìn xưa vẫn như thế cả. Nay quần tiên ai về chỗ nấy, sống trong cảnh quạnh quẽ cô liêu, đó là vì lòng vật dục không nảy sinh, hay là cũng có nhưng phải gượng đè nén?

Nàng đổi sắc mặt nói:

- Mấy người ấy là những cái khí huyền nguyên, những cái tính chân nhất, thân hầu cửa tía, tên ghi đền vàng, ở thì ở phủ thanh hư, chơi thì chơi miền sung mạc, không cần gạn mà lòng tự trong, không cần lấp mà đục vẫn lặng. Không như thiếp bảy tình chưa sạch, trăm cảm dễ sinh, hình ở phủ tía nhưng lụy vướng duyên trần, thân ở đền quỳnh mà lòng theo cõi dục; chàng đừng nên nhân một mình thiếp mà cho tất cả quần tiên đều thế.

Từ nói:

- Nếu thế thì em còn thua các tiên kia xa lắm.

Vợ chồng cùng vỗ tay cười to.

Chỗ Giáng Hương có bức bình phong trắng. Từ thường đề thơ lên trên, trong đó có hai bài thơ mà chàng tâm đắc nhất:

Tứ diện ba đào nhất kế sơn,

Dạ lai hà xứ mộng hương quan.

Mang mang trần giới hồi đầu viễn,

Thân tại hồng vân bích thủy gian.

Dịch là:

Sóng nước bao quanh núi một vùng,

Mộng về quê cũ lối không thông.

Mây vàng nước biếc thân nương đậu,

Trần giới xa coi ngút mịt mùng.

Và bài:

Đào hoa nhiễu giản xuất Thiên thai,

Ủy địa tàn hồng bán lục đài.

Khước tiếu Lưu lang khinh xuất động,

Lâm phong kỷ bả ngọc thư khai.

Dịch là:

Mặt suối hoa đào lặng lẽ trôi,

Rêu trùm sắc thắm uổng pha phôi.

Lưu Lang (2) biệt động sao khờ mấy,

Thư ngọc buồn tênh giở mấy hồi.

Từ Thức từ khi bỏ nhà đi thấm thoát đã được một năm, thường hay chạnh lòng nhớ quê nhà. Những đêm gió thổi, những sáng sương sa, bóng trăng sáng dòm qua cửa sổ, tiếng thủy triều nghe vẳng đầu giường, đối cảnh chạnh lòng, một mối buồn bâng khuâng, quấy nhiễu khiến không sao ngủ được. Một hôm trông ra bể, thấy một chiếc tàu buôn đi về phương Nam. Từ trỏ bảo Giáng Hương rằng:

- Nhà tôi đi về phía kia kìa, song biển cả trời xa, chẳng biết là ở tận đâu.

Rồi nhân lúc rỗi, chàng nói với nàng rằng:

- Tôi bước khách bơ vơ, lòng quê bịn rịn, lệ hoa thánh thót, lòng cỏ héo hon, dám xin thể tình mà cho được tạm về, chẳng hay ý nàng nghĩ thế nào?

Giáng Hương bùi ngùi không nỡ dứt. Từ lang nói:

- Tôi xin hẹn để về cho bạn bè gặp mặt và thu xếp việc nhà cho yên, rồi sẽ quay lại đây để với nàng cùng già ở chốn làng mây bến nước.

Từ Thức vì sao có thể lấy vợ tiên? Câu chuyện ly kỳ này có kết thúc như thế nào và dấu tích để lại của nó ở thế gian ra sao? Dưới đây là nội dung câu chuyện. (Ảnh: NTDVN tổng hợp)
(Ảnh: NTDVN tổng hợp)

Giáng Hương khóc mà nói:

- Thiếp chẳng dám vì tình phu phụ mà ngăn cản mối lòng quê hương của chàng. Song cõi trần nhỏ hẹp, kiếp trần ngắn ngủi, dù nay chàng về nhưng chỉ e liễu sân hoa vườn, không còn đâu cảnh tượng như ngày trước nữa.

Nàng nhân thưa với phu nhân, phu nhân thở dài:

- Rể ta lòng trần chưa dứt, duyên của con cũng chừng ấy thôi.

Nhân cho một cỗ xe cẩm vân để chàng cưỡi về. Nàng cũng đưa cho chàng một bức thư viết vào lụa mà nói:

- Ngày khác trông thấy vật này, xin đừng quên mối tình ngày cũ.

Rồi tràn nước mắt mà ly biệt.

Chàng đi chỉ thoắt chốc đã về đến nhà, thì thấy vật đổi sao dời, thành quách nhân gian, hết thảy đều không như trước nữa, duy có những cảnh núi khe là vẫn không thay đổi sắc biếc màu xanh thủa nọ. Bèn đem tên họ mình hỏi thăm những người già cả thì thấy có người nói:

- Thuở bé tôi nghe nói ông cụ tam đại nhà tôi cũng cùng tên họ như ông, đi vào núi mất đến nay đã hơn 80 năm, nay đã là năm thứ 5 niên hiệu Diên Ninh là đời ông vua thứ ba của triều Lê rồi (năm 1458).

Chàng bấy giờ mới hậm hực bùi ngùi; muốn lại lên xe mây để đi, nhưng xe đã hóa làm một con chim loan mà bay mất. Mở thư ra đọc, thấy có câu: "Kết lứa phượng ở trong mây, duyên xưa đã hết; tìm non tiên ở trên bể, dịp khác còn đâu!” mới biết là Giáng Hương đã nói trước với mình những lời ly biệt. Chàng bèn mặc áo cừu nhẹ, đội nón lá ngắn, vào núi Hoành Sơn, rồi sau không biết đi đâu mất.

Từ Thức! Từ Thức! Đến bao giờ mới lại gặp người tiên? Khi lòng còn tham luyến cõi trần.

Tương truyền, nơi Từ Thức gặp tiên chính là Động Từ Thức. Động này còn gọi là Động Bích Đào. Động nằm trên dãy núi Tam Điệp, thuộc địa bàn xã Nga Thiện, huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa, nằm cạnh đường quốc lộ 10, cách thị trấn Phát Diệm hơn 10 cây số về phía Tây Nam.

Sau này thi nhân Tản Đà nhân vịnh về chuyện hai chàng Lưu Thần, Nguyễn Triệu đất Trung Nguyên lạc Thiên Thai và lấy vợ tiên - chuyện cũng tương tự - mà có từ phẩm “Tống biệt”, vì ý cảnh có chút tương đồng nên có thể tạm dùng ở đây được:

Lá đào rơi rắc lối thiên thai,
Suối tiễn oanh đưa luống ngậm ngùi!
Nửa năm tiên cảnh,
Một bước trần ai,
Ước cũ duyên thừa có thế thôi!
Đá mòn, rêu nhạt,
Nước chảy, huê trôi,
Cái hạc bay lên vút tận trời!
Trời đất từ đây xa cách mãi.
Cửa động,
Đầu non,
Đường lối cũ,
Ngàn năm thơ thẩn bóng trăng chơi.

Nguyên Phong

Nguồn: Viết lại đa phần dựa theo nguyên bản: “Chuyện Từ Thức lấy vợ tiên” trong sách “Truyền kỳ mạn lục” của Nguyễn Dữ.

(1): tức Tây Vương Mẫu

(2): bài thơ Từ Thức lấy ý từ câu chuyện Lưu Thần Nguyễn Triệu nhập Thiên Thai



BÀI CHỌN LỌC

Chuyện Từ Thức nước Việt lấy vợ tiên [Radio]