Đại Đạo trị quốc (Phần 17): Sự sai lầm của tư duy

Giúp NTDVN sửa lỗi

Tư duy của nhân loại có khởi nguồn từ tiên thiên Chân Ngã, đó là cái tôi chân chính. Tiên thiên Chân Ngã khi chưa bị ô nhiễm, là thuần chân vô tà, là ở trong Đạo. Nhân loại khi ở trong trạng thái tiên thiên chân ngã, không biết đến Thiện, Ác, tất cả đều ở trong bản tính, trong Đạo mà làm, chí Thiện chí Mỹ, thiên hạ vô vi nhi trị, xã hội ở trạng thái hài hòa hạnh phúc nhất.

Xem lại:
Đại Đạo trị quốc (Phần 16): Đại Đạo phương Tây
Đại Đạo trị quốc (Phần 18): Ma Đạo của phương Tây

Trong chương này, tác giả đứng tại góc độ Triết học phương Tây, cùng mọi người thảo luận về tầng diện tư duy của nhân loại.

Hậu thiên của nhân loại không ngừng hình thành nên các chủng tư duy quan niệm, chúng được gọi là trí tuệ, kinh nghiệm. Những tư duy quan niệm hình thành hậu thiên này có nhiều tầng, trên tư duy quan niệm cũ không ngừng hình thành nên tư duy quan niệm mới, không những vậy, trong toàn bộ quá trình lịch sử của xã hội nhân loại chúng có tầng tầng tích lũy. Một khi hình thành, chúng sẽ dẫn đạo, lung lạc hành vi của con người, sau đó quay lại thao khống con người. Nhân loại lại cho đó là tư tưởng, cho đó là của mình, kỳ thực đó chỉ là những quan niệm và nhận thức hình thành hậu thiên, không phải là phần tiên thiên tự kỷ chân chính.

Tư duy của nhân loại có khởi nguồn từ tiên thiên Chân Ngã, đó là cái tôi chân chính. Tiên thiên Chân Ngã khi chưa bị ô nhiễm, là thuần chân vô tà, là ở trong Đạo. Nhân loại khi ở trong trạng thái tiên thiên chân ngã, không biết đến Thiện, Ác, tất cả đều ở trong bản tính, trong Đạo mà làm, chí Thiện chí Mỹ, thiên hạ vô vi nhi trị, xã hội ở trạng thái hài hòa hạnh phúc nhất.

Quý nhân vốn có khí chất của riêng mình, có một vài đặc trưng này đã đủ thành công rồi (Ảnh: Secretchina)
Tiên thiên Chân Ngã khi chưa bị ô nhiễm, là thuần chân vô tà, là ở trong Đạo. (Ảnh: Secretchina)

Thuận theo sự phát triển của xã hội, nhân loại sống trong quần thể xã hội không ngừng bị ô nhiễm bởi các chủng dục vọng, tư tâm, sinh mệnh từ từ rớt xuống, bị hãm vào các chủng trí tuệ, kinh nghiệm, cái mà được sinh ra trong lý tương sinh tương khắc, hình thành nên tầng tầng quan niệm hậu thiên, tầng tầng tích lũy, cuối cùng chôn vùi chặt Chân Ngã tiên thiên, làm mất đi thuần chân tiên thiên.

Tư duy từ tiên thiên Chân Ngã phát xuất ra xong, nó phải đi qua các tầng lọc của quan niệm hậu thiên, qua gia công, mới đến được bề mặt con người, chỉ huy ngôn hành con người. Nhưng tầng tầng quan niệm hậu thiên này, được hình thành trong quá trình rơi rớt của nhân loại, hãm trong tương sinh tương khắc mà sinh ra, là lệch khỏi Đại Đạo. Do vậy tư duy ban đầu sau khi đi qua các tầng quan niệm hậu thiên sẽ biến thành vô cùng phức tạp, bị đưa vào rất nhiều nhân tố hậu thiên, bị ô nhiễm làm méo mó, khi đến bề mặt chỉ huy ngôn hành, thì sẽ rời xa Đại Đạo, rời xa trạng thái hoàn mỹ hài hòa, các loại mâu thuẫn và thống khổ xuất hiện.

Lúc con người ở trong trạng thái tiên thiên thuần chân ban đầu, tư duy do tiên thiên chân ngã phát xuất ra, trực tiếp đi đến bề mặt con người, chỉ huy ngôn hành của con người, không bị bất kỳ bộ lọc tư duy nào gia công, do vậy khi ấy nhân loại đơn giản hạnh phúc, tòng tâm sở dục, tùy kỳ tự nhiên, đều ở trong Đạo.

Nhân loại trong quá trình rơi rớt, các quan niệm hậu thiên hình thành, nhưng không phải tất cả đều xấu, đều Ác, trong đó nhất định có Thiện, có tốt, bởi vì chúng được sinh ra cùng một lúc trong tương sinh tương khắc. Ví dụ: Nhân loại sau khi rơi xuống, sinh ra dối trá, thì tương ứng cũng sinh ra thành tín; sinh ra ác thì tương ứng có thiện… tầng tầng tư duy quan niệm hậu thiên như vậy sẽ dần dần che đậy tiên thiên chân ngã, cuối cùng chôn lấp hoàn toàn.

Con người có tồn tại Thiện, Ác, những quan niệm tốt sẽ ức chế sự bại hoại, quan niệm xấu thì làm gia tăng sự bại hoại, do vậy mà trước khi đưa ra quyết định hoặc làm một việc nào đó, người ta thường đấu tranh tư tưởng, đánh lộn trong tư tưởng của mình. Tay trái và tay phải không thể đánh nhau, bởi vì chúng là tự kỷ, tự kỷ và tự kỷ không thể đánh nhau, chỉ có hai bên khác biệt mới có thể đánh nhau, xung đột. Vậy tư duy sao có thể đánh lộn? bởi vì nó không phải là tự kỷ chân chính, nó chỉ là những quan niệm hình thành hậu thiên bên ngoài mang vào, chúng chôn vùi tiên thiên chân ngã, rồi quay lại thao khống con người, cho nên mới xuất hiện hiện tượng tư tưởng xung đột. Tu luyện Đạo gia thường nói “Phản bổn quy chân”, chính là phá trừ vứt bỏ tầng tầng quan niệm hậu thiên, quay về với tiên thiên chân ngã, làm chân niệm của mình xuất lai, không bị chôn vùi, làm cho mình trở thành chủ nhân chân chính của mình, do đó Đạo gia khi tu thành, được gọi là Chân Nhân.

Được Trương Tam Phong chân truyền, Thẩm Vạn Tam khổ luyện kim đan viên mãn phi thăng
Tu luyện Đạo gia thường nói “Phản bổn quy chân”, chính là phá trừ vứt bỏ tầng tầng quan niệm hậu thiên, quay về với tiên thiên chân ngã, do đó Đạo gia khi tu thành, được gọi là Chân Nhân. (ảnh: nguồn tổng hợp)

Lấy một ví dụ: Sinh vật học hiện nay phát hiện có một nguyên lý gọi là phản xạ có điều kiện. Như tiếng chuông và thức ăn là hai sự vật không liên quan, nếu ta lắc chuông xong, cho con chó ăn thức ăn ngon, lặp lại trong thời gian dài, sau này chỉ cần nghe thấy tiếng chuông, con chó liền tự động chảy nước dãi. Đây chính là tư tưởng của con chó đã bị đưa vào một tầng quan niệm ngoại lai, chồng lên trên tư duy nguyên lai, một khi có điều kiện kích phát, là tầng quan niệm này khởi tác dụng, quay lại khống chế hành vi của con chó. Quá trình hình thành quan niệm hậu thiên của nhân loại cũng tương tự. Một khi đã hình thành là không ngừng tích lũy, tầng tầng bồi đắp, chồng lên tư duy nguyên lai, quay lại khống chế con người, thao túng ngôn hành người ta. Có những tư duy được sinh ra từ tầng diện tư duy hậu thiên, nó trực tiếp khống chế người ta. Có những tư duy được phát xuất từ cội nguồn tiên thiên, đây mới là tư duy chân chính của con người, nhưng nó lại phải đi qua tầng tầng lớp lọc của quan niệm tư duy hậu thiên, bị gia công thay đổi sau mới tới được bề mặt, chỉ huy ngôn hành của con người. Cho nên, một khi tiên thiên chân ngã bị các tầng quan niệm tư duy hậu thiên chôn lấp, thì con người sẽ bị những thứ này hoàn toàn khống chế.

Hiền triết Socrates lưu lại cho thế nhân “Tinh thần trợ sản Pháp”, là để phá trừ tầng tầng quan niệm hậu thiên, tìm thấy tiên thiên chân ngã, tìm thấy chân lý Đại Đạo.

Quan niệm tư duy hậu thiên trong quá hình thành của nó, có tầng tầng đối ứng, tích lũy trên tầng diện tư duy, từ đây sinh ra những đối ứng sai lầm. Ví dụ: Thức ăn ngon và chảy nước dãi là có đối ứng, đây là đối ứng đúng, trong tình huống thông thường, con chó thấy thức ăn ngon thì chảy nước dãi. Nhưng tiếng chuông và chảy nước dãi là không đối ứng, chó nghe chuông rung không thể chảy nước dãi. Nhưng rung chuông rồi cho thức ăn ngon, qua một thời gian, trong tư duy của nó sẽ sản sinh ra một tầng quan niệm hậu thiên, tầng quan niệm này mang tiếng chuông và chảy nước dãi làm thành đối ứng, đây là đối ứng sai lầm của tầng diện tư duy, đây cũng chỉ là tiện cho lý giải mà lấy một ví dụ, cũng không được hoàn toàn xác đáng. Khi loại tư duy sai lầm này hình thành xong, nó sẽ ảnh hưởng, bẻ cong nhận thức của người ta, làm sai lệch khỏi chân lý Đại Đạo, đồng thời trực tiếp khống chế ngôn ngữ, hành vi của con người.

Khi loại tư duy sai lầm này dần dần tích lũy nhiều lên, tư duy con người sẽ bị bẻ cong, thậm chí cuối cùng đến mức hoàn toàn điên đảo, thác loạn, đảo ngược. Nếu loại tư duy điên đảo sai lầm này xuất hiện trong xã hội trên diện rộng, thì sẽ xuất hiện hiện tượng Âm Dương đảo chiều, tới lúc đó, Thiện không phải là Thiện, mà là tà ác, chỉ là mượn cờ hiệu của Thiện, tất cả nhận thức, hành vi của con người đều điên đảo, chính là xã hội nhân loại ngày nay. Mỗi khi thiên tượng Âm Dương đảo chiều xuất hiện, đều là lúc nhân loại bước vào hủy diệt, tất cả đều đối mặt với sự giải thể hoàn toàn.

Mỗi khi thiên tượng Âm Dương đảo chiều xuất hiện, đều là lúc nhân loại bước vào hủy diệt, tất cả đều đối mặt với sự giải thể hoàn toàn. (Ảnh: NTDVN tổng hợp)

Phần trước đã từ góc độ của Đạo gia - tương sinh tương khắc mà luận giải Âm Dương đảo chiều, phần này là từ góc độ Triết học Tây phương, từ tầng diện tư duy của con người luận giải Âm Dương đảo chiều.

“Bất thức Lư Sơn chân diện mục, chỉ duyên thân tại thử sơn trung” (Tạm dịch: Không thấy được toàn cảnh chân thực của núi Lư Sơn, là do ta đang ở trong núi đó).

Nếu nhân loại không nhảy thoát ra khỏi tầng diện tư duy của chính mình, thì sẽ không thấy được tầng diện tư duy đó, bởi vì nó ở trên bề mặt mà thao khống nhận thức con người, chỉ lệnh là từ đó phát xuất ra, hoặc là phải qua tầng tầng dẫn dắt, gia công mới tới được bề mặt, nhân loại không thể phân biệt, nên cho đó là của mình. Chỉ có đề cao tầng thứ sinh mệnh, chỉ có đạt đến chân lý, lấy chân lý vĩnh hằng bất biến mà đo lường, thì mới phân biệt được ra tầng diện tư duy hậu thiên, từng tầng từng tầng một bóc bỏ chúng đi, tìm về tự kỷ chân chính, đây chính là quá trình tu luyện hồi thăng của sinh mệnh, làm cho xã hội nhân loại quay về trạng thái hài hòa mỹ hảo hạnh phúc nhất.

Sau Socrates, giới Triết học phương Tây không còn xuất hiện Triết học gia chân chính, gồm cả đệ tử của Ông - Plato, đệ tử của Plato - Aristoteles, họ đều không phải Triết học gia chân chính. Có học giả so sánh Plato với Khổng Tử của Trung Quốc, tác giả cho rằng họ không thể so bì, họ ở dưới Khổng Tử, Plato là kẻ phá hoại tư tưởng của Socrates, chứ không phải là người truyền thừa. Plato là kẻ đồng tính bệnh hoạn, do tư duy nhận thức điên đảo sai lầm tạo thành trạng thái âm dương đảo ngược, ông ta tự mình không tìm thấy mình, nói gì đến nhận thức chân lý? Cộng sản cộng thê cùng chủ nghĩa cộng sản tà ác manh nha, cũng là từ Plato thuyết “Lý tưởng quốc” mà ra.

Sau này, Triết học phương Tây hoàn toàn trở thành tri thức bề mặt. Sau khi Socrates qua đời, các Triết học gia phương Tây không còn bất kỳ ai đắc được chân lý, tự họ không cách nào đắc được chân lý, nên cũng không thể dẫn dắt người khác đến với chân lý. Mặc thế nhân cho là họ có trí tuệ này khác, cái mà họ đắc được chỉ là những trí tuệ hậu thiên, là tri thức bề mặt, họ đều không tìm thấy tự kỷ, trong mê mà đánh mất chính mình. Sau đó Triết học phương Tây đi vào ngõ cụt, cuối cùng bị bẻ cong, sai lầm, hình thành Âm Dương đảo chiều, nhập vào ma đạo, tà đạo, phát triển thành Vô Thần luận, Tiến Hóa luận, đem người ta dẫn vào đường ma quỷ. Đây cũng như Ma vương Ba Tuần phái ma con, ma cháu xuất gia làm hòa thượng, thân khoác Cà-sa, miệng niệm kinh văn mà hủy hoại Phật Pháp của Phật Thích Ca Mâu Ni vậy.

Theo Lý Đạo Chân - Visiontimes
Thái Bình biên dịch



BÀI CHỌN LỌC

Đại Đạo trị quốc (Phần 17): Sự sai lầm của tư duy