Họ, tên, tên chữ, tên tự của người xưa (1)

Giúp NTDVN sửa lỗi

Tục ngữ có câu: “Đại trượng phu đi không đổi họ, ngồi không đổi tên”, họ tên đối với người xưa mà nói, là cực kỳ quan trọng. Nhưng căn nguyên do đâu mà con người ta có họ thì có lẽ không nhiều người biết. Người người đều có họ, cho rằng đây là chuyện đương nhiên từ xưa, thực ra “Họ” (tính) của con người đã trải qua nhiều biến hóa, chúng ta sẽ từ từ làm rõ.

Nguồn gốc của Họ

Chữ Họ (Tính - 姓) nhìn từ kết cấu chữ Hán, là do chữ "Nữ - 女" và chữ "Sinh - 生" cấu thành. Từ đó có thể thấy ở thời đại viễn cổ, quả thật đã trải qua xã hội mẫu hệ, cho nên từ các văn vật cổ có thể thấy Họ thời đại Tiên Tần, hầu như đều có chữ Nữ, như các họ Cơ - 姬, Diêu - 姚, Tự - 姒, Quy - 媯, Nhâm - 妊, Khương - 姜, Doanh - 嬴, Phi - 妃, Lạc - 嫪 v.v...

Về nguồn gốc của Họ (Tính), nói chung có 2 loại giả thuyết.

Giả thuyết thứ nhất cho rằng, lấy đặc trưng địa lý địa phương của nơi sinh trưởng làm họ.

Theo “Quốc ngữ - Tấn ngữ”, họ Cơ thuộc dòng dõi Hoàng Đế có thuỷ tổ cư trú bên bờ sông Cơ Thủy, cho nên lấy Cơ làm họ; còn họ Khương thuộc dòng dõi Viêm Đế thì cư trú ở Khương Thủy. Kiểu giả thuyết này, đương nhiên có đạo lý của nó, hơn nữa cũng đưa ra được ví dụ thực tế, cho nên có thể tin tưởng.

Đặc điểm này cũng được người Nhật áp dụng. Xưa người dân thường Nhật Bản chỉ có tên mà không có họ. Sau thời Duy tân Minh Trị, người Nhật đa phần lấy địa danh làm họ. Ví dụ, ngôi sao, ca sĩ nổi tiếng Nhật Bản những năm thập niên 70, 80 thế kỷ trước là Yamaguchi Momoe (Sơn Khẩu Bách Huệ), tổ tiên của cô lấy họ theo địa danh cư trú Yamaguchi (Sơn Khẩu)

Yamaguchi Momoe. (Chụp màn hình)

Một giả thuyết khác, sau khi phát triển các lĩnh vực dân tộc học, xã hội học, văn hóa học cận đại, trải qua nghiệm chứng khoa học, cho rằng nguồn gốc họ của con người đến từ sự sùng bái “Totem” của tổ tiên.

Totem, nguyên là ngôn ngữ bản địa Nam Mỹ, họ cho rằng tổ tiên họ là do một loại động vật, thực vật hoặc hiện tượng tự nhiên khác biến hóa mà thành, bởi vậy sùng bái đối với loại động vật, thực vật hoặc hiện tượng tự nhiên này, một cách tự nhiên lấy đó làm đại biểu cho bộ lạc của mình, cũng chính là họ của bộ lạc.

Theo khảo sát văn vật, Trung Quốc cổ đại cũng có hiện tượng như thế, cho nên nói rằng họ đến từ totem cũng tương đối có đạo lý. Nói chung, hai kiểu giả thuyết đều có lý, đều có thể tham khảo.

Nhưng bất luận họ người là đến từ giả thuyết nào, lúc ban đầu chỉ có nữ giới là có họ, đây là sự thực. Tuy nhiên, văn hóa lịch sử nhân loại không ngừng diễn hóa (chú ý, chỉ là diễn hóa, không phải tiến hóa. Chưa chắc nay đã hơn xưa, xưa chưa chắc đã hơn nay, chỉ là khác biệt mà thôi), khi phương pháp hái lượm của nhân loại dần dần không cung ứng đủ thức ăn nữa, ắt phải dùng đến hình thức săn bắt giết chóc các loại động vật hung mãnh thì mới no bụng, lúc này cần phải có nam giới khỏe mạnh, cũng bởi vậy mà dần dần thoát khỏi xã hội mẫu hệ, xuất hiện xã hội phụ hệ do nam giới làm chủ gia đình.

Xuất hiện xã hội phụ hệ, thì có thể bắt giết hoặc nuôi dưỡng nhiều động vật hơn, bước vào xã hội nông nghiệp sơ kỳ, có thể thu hoạch được nhiều nông sản, thức ăn không còn thiếu thốn nữa, dẫn đến nhân khẩu sinh sôi đông đảo. Số lượng Họ (Tính) vốn có trở nên không đủ để sử dụng, nên đối với thế hệ sau đã trở nên đông đảo này cần dùng các loại phương thức để cho bọn họ một đại biểu, đó chính là "Thị" (Thị tộc). Thị xuất hiện vào cuối thời Tam đại Hạ, Thương, Chu.

Nhân loại trong quá trình diễn hóa hơn 10 vạn năm, thậm chí lâu hơn, đã phát hiện giao phối cận huyết sẽ sinh ra đời sau bị khuyết tật dị dạng, vì để tránh hôn phối họ hàng gần, Tính và Thị liền mang tác dụng nhận biết, phân biệt, mà Thị là từ Tính phân ra. Thời thượng cổ, chỉ quý tộc mới có Tính, hậu duệ của quý tộc có Thị, bình dân không có Tính hoặc Thị, cho nên cái gọi là bách tính cổ đại là chỉ quý tộc, bình dân chỉ được gọi là "kiềm thủ", "lê dân" .

Đến thời đại Xuân Thu Chiến Quốc, bởi vì tình hình các chư hầu thôn tính nhau vô cùng kịch liệt, rất nhiều quý tộc chư hầu do nước nhà diệt vong mà lưu lạc làm bình dân. Vậy là rất nhiều người bình dân có Thị cho riêng mình (chính là Tính, Họ mà chúng biết ngày nay), rất nhiều bình dân vốn không có họ cũng bắt chước làm theo, nhận cho mình một họ.

Tính vào thời Xuân Thu Chiến Quốc thực ra đều là Thị trước đây. Cho nên những Tính thời thượng cổ như Quy, Doanh, Tự, Lạc, Nhâm v.v.. đến hiện nay là hầu như không còn thấy nữa.

Theo “Quốc ngữ” quyển 10, “Tấn ngữ tứ - Văn Công”: “Con cái Hoàng Đế tổng cộng 25 người, mang họ có 14 người, trong đó có 12 họ là Cơ, Dậu, Kỳ, Tị, Đằng, Châm, Nhâm, Tuân, Hi, Cát, Hoàn, Y v.v…”

Cố Viêm Võ thời cuối Minh đầu Thanh trong “Nhật tri lục” cho rằng: "Nói về họ, vốn từ Ngũ Đế. Xem ‘Xuân Thu’ thì thấy có 22."

22 họ này là: Quy, Tự, Tử, Cơ, Phong, Doanh, Kỷ, Nhâm, Cật, Kỳ, Mị, Tào, Vân, Đổng, Khương, Yển, Quy, Mạn, Hùng, Ngỗi, Tất, Duẫn v.v…, nếu như xem xét chữ khắc trên đồ đồng thời Tây Chu thì số lượng họ đương thời không quá 30, dù nhận định thế nào, thì vào thời đại Tiên Tần, họ cũng không có nhiều lắm, cho nên để có "bách tính" thì hẳn phải là một quốc gia mênh mông.

Thế nhưng đến cận hiện đại, số lượng họ thấy được từ văn vật trong Trung Quốc đã có 5662 họ, trong đó họ đơn có 3484, họ kép có 2032, họ ba chữ có 146; trong 5662 họ này còn chưa kể đến họ bốn chữ, hay họ phiên âm chữ Hán của người dân tộc thiểu số Duy Ngô Nhĩ, Mông Cổ, Hắc Tát Khắc, Ô Tư Biệt Khắc... Xem ra, họ của người Trung Quốc ít nhất phải hơn 7-8 ngàn, vậy rốt cuộc là từ đâu ra?

Nói một cách sơ lược, sau Xuân Thu Chiến Quốc, người Trung Quốc nhận được Tính (kỳ thực cũng chỉ là Thị từ thời cổ) với các hình thức sau:

Một, lấy biểu tượng thị tộc làm họ

Biểu tượng thị tộc, hay totem đã đề cập ở trên, như dân Thương tự nhận là do "Huyền điểu" diễn hóa, “Kinh Thi - Thương tụng” có đoạn: "Thiên mệnh huyền điểu, giáng nhi sinh Thương, trạch Ân thổ mang mang..."

Có thể thấy, dân triều Thương lấy huyền điểu làm biểu tượng thị tộc (cũng chính là totem).

Vậy huyền điểu còn là gì nữa? Theo giáo sư Triệu Thiết Hàn thời nay khảo chứng, huyền điểu là chim yến, văn tự cổ đại giống như chữ "Tử", cho nên dân Thương mang Tính "Tử" .

Tương truyền mẹ của thủy tổ dân Thương là Giản Địch, có lần khi ra ngoài tế bái Trời, vừa lúc có một con chim yến (huyền điểu) bay tới, đồng thời đẻ một quả trứng, Giản Địch nuốt quả trứng vào bụng, liền mang thai, sinh ra thủy tổ triều Thương là Tiết.

Lấy tri thức ngày nay để xem xét truyền thuyết này, đương nhiên sẽ cho rằng quả thực bất khả tư nghị, thế nhưng với tổ tiên 3000 năm trước thì nó là chuyện hoàn hoàn có thể. Ví dụ cùng loại về việc lấy totem thị tộc làm Tính như câu chuyện này thì vô cùng nhiều.

Hay như sự tích “Hạ Vũ trị thủy” vẫn được truyền tụng từ lâu trong lịch sử thượng cổ Trung Quốc, dân Hạ cho rằng mình có quan hệ nào đó với rắn, có thể nói lấy rắn làm totem, cho nên Vũ - người kiến lập vương triều Hạ - mang Tính là Tự 姒, bộ thủ Nữ 女là chữ hội ý, chữ "Dĩ" “以” (hay còn viết “㠯”) căn cứ theo thuyết văn giải tự là "viết ngược chữ Tị", mà Tị chính là rắn, có thể thấy được dân Hạ mang Tính là Tự, cũng là từ totem diễn hóa ra.

Những thứ khác như Long, Ngưu, Dương, Mã, Hùng, Lộc, Chu, Lôi v.v…, đều có thể nói là nhờ totem mà mang Tính.

Hai, nhờ nước phong hoặc thái ấp mà mang họ

Vào thời nhà Chu trước đây, thiên tử vì để củng cố vương quyền đã phong cho con em trong họ hoặc công thần khác họ một khối lãnh thổ, để họ trở thành chư hầu, tức là phong quốc bảo vệ thiên tử. Những chư hầu này có thể cai trị người dân trên lãnh thổ được phong, mà chư hầu lại có thể phân phong đất đai của mình cho khanh tướng, đại phu - gọi là thái ấp. Kiểu phân phong này thường được gọi là thời đại phong kiến hoặc xã hội phong kiến.

Trên cơ bản đến khi Tần Thủy Hoàng thống nhất thiên hạ, bỏ phong kiến thiết lập quận huyện, thời đại phong kiến kết thúc, sau thời Tần chỉ có thể nói là đế chế hoặc thời đại tập quyền.

Những chư hầu phong quốc thời Chu, hoặc các khanh tướng, đại phu, thường thường lấy nước phong hoặc thái ấp làm Tính. Tỷ như thiên tử Chu phong con cháu cùng họ (họ Cơ) làm chư hầu, kể đến có: Lỗ, Vệ, Thái, Tào, Đằng, Yên, Trịnh, Hàn, Hà, Quắc, Hoạt, Ung, Phong, Hình, Tùy, Hồ, Ba... - tổng cộng 48, thế là 48 chư hầu vốn mang Tính là Cơ lấy tên nước phong làm Thị, thời gian trôi qua, Thị đã trở thành Tính.

Lại như thiên tử Chu phong công thần khác họ làm chư hầu, kể đến có: Tề, Sở, Tống, Kinh, Trần, Triệu, Chu, Trâu, Tức, Đặng, Lương, Tiết, Từ, La, Thân, Chương, Cát... - tổng cộng 60, vậy là thêm 60 chư hầu lấy những Tề, Sở, Tống... làm họ.

Chư hầu cũng có thể đem lãnh địa của mình phân phong cho khanh tướng, đại phu cùng họ hoặc khác họ làm thái ấp, thế là những khanh tướng, đại phu này lấy thái ấp làm Tính, như Lưu, Bạch, Kinh, Đường, Tước, Lư, Bảo, Phí, Khoái, Phạm... v.v... Vậy là hơn 100 họ là lấy nước phong hoặc thái ấp làm họ.

周武王像
thiên tử Chu phong công thần khác họ làm chư hầu, kể đến có: Tề, Sở, Tống, Kinh, Trần, Triệu, Chu, Trâu, Tức, Đặng, Lương, Tiết, Từ, La, Thân, Chương, Cát... Chân dung Chu Vũ Vương Cơ Phát. (Miền công cộng)

Ba, lấy chức quan làm họ

Thời đại Tiên Tần quý tộc và bình dân có tính thế tập cha truyền con nối, người làm quan đương nhiên có địa vị kinh tế - xã hội cao hơn bình dân, đồng thời chức nghiệp bình thường cũng có đặc tính lưu truyền lại cho đời sau, bởi vậy lấy tên gọi chức quan hoặc chức nghiệp làm họ. Vế trước có: Sử, Soái, Tông, Quân, Khố, Tư Đồ, Tư Mã, Tư Không, Vương, Công, Bá, Hầu v.v…; vế sau có: Đào, Chúc, Vu, Xa, Cầu, Giả v.v….

Bốn, lấy tước vị tổ tiên hoặc thụy hiệu làm họ

Người xưa cũng có lấy tước vị tổ tiên làm họ, như tổ tiên đã từng được phong làm vương, hoặc công, như vậy hậu duệ sẽ lấy Vương, Vương Tôn, Công Tôn làm họ; cũng có người lấy thụy hiệu tổ tiên làm họ, như: Văn, Võ, Mục, Trang v.v...

Năm, lấy đức hạnh làm họ

Như Triệu Tương nước Tấn thời Xuân Thu đi theo công tử Trùng Nhĩ (về sau là Tấn Văn Công), phiêu dạt 19 năm, cuối cùng giúp công tử Trùng Nhĩ về nước Tấn đăng quang vương vị (nói chặt chẽ ra, lúc đó nước Tấn vẫn không thể xưng vương, chỉ có tước vị là công). Triệu Tương không chỉ ân trọng tình thâm đối với công tử Trùng Nhĩ, mà đối với người bình thường cũng thích chiều lòng, cho nên mọi người đều thấy ông tựa như mặt trời ấm áp giữa mùa đông, vậy là hậu duệ của ông liền lấy “Đông Nhật" làm họ.

Lại như Thiếu Chính Mão (cùng thời Khổng Tử) rất có tiếng tăm ở nước Lỗ, có thể nói là người nước Lỗ mà ai cũng nghe tiếng, bởi vậy hậu duệ của ông liền lấy "Văn Nhân" làm họ. Lại như Hoài Nam Vương Anh Bố đầu thời Hán, lúc còn trẻ từng vì phạm tội mà phạt thích chữ lên mặt, loại hình phạt này gọi là “kình hình”, hậu duệ của ông không những không coi đó là sỉ nhục mà còn lấy Kình làm họ.

(Còn tiếp)

Theo Lưu Học Diêu - Epochtimes

Hữu Đức biên dịch

Văn hoá Lịch sử


BÀI CHỌN LỌC

Họ, tên, tên chữ, tên tự của người xưa (1)