Họ, tên, tên chữ, tên tự của người xưa (2)

Giúp NTDVN sửa lỗi

Người xưa rất coi trọng tên tuổi, "Đại trượng phu đi không đổi họ, ngồi không đổi tên". Tuy nhiên, hiện tượng thay đổi họ lại cực kỳ phổ biến trong lịch sử các nước Á Đông. Từ các sử liệu của Trung Quốc cổ đại, có thể thấy được nguyên nhân và quy luật này.

Xem lại Phần 1

Sáu, lấy nơi cư trú làm họ

Sau khi một số thị tộc di chuyển đến nơi ở mới thì sử dụng địa danh hoặc đặc trưng địa phương làm họ, ví dụ như Trần Trọng Tử nước Tề thời Chiến Quốc, vốn là người có gia thế ở nước Tề, sau ông từ bỏ tước vị, chuyển nhà đến Ư Lăng đọc sách và làm ruộng, do đó hậu duệ ông dùng “Ư Lăng” làm họ.

Hay như đại phu Tử Sản nước Trịnh, cư trú tại Đông Lý, con cháu của ông dùng "Đông Lý" làm họ.

Trong xã hội người Hán rất nhiều khi là lấy đặc trưng của nơi cư trú làm họ, như Đông Quách, Nam Cung, Tây Môn, Bắc Khâu, Bách Lý, Trì, Thành, Liễu, Lý, Lâm, Dương, Quan, Đồ v.v...

Bảy, lấy tên hoặc tên tự của ông nội làm họ

Theo chế độ tông pháp thời Chu, chắt của quân chủ các nước chư hầu không được xưng là Công Tôn, mà lấy tên tự của ông nội làm họ, như Thi, Du, Khổng, Nhan, Đổng, Viên v.v…; nếu như ông nội không có tên tự, thì lấy tên của ông nội làm họ, như: Kim, Thiếu, Thang, Đồng, Triển, Cẩu, Khánh Phụ, Cao Dương v.v...

Tám, lấy vai vế trong gia đình, dòng họ làm họ

Thời cổ vai vế lớn nhỏ huynh đệ tỷ muội thường thường lấy theo trình tự Bá, Trọng (có lúc cũng dùng Mạnh), Thúc, Quý.

Như đời Thương, con vua nước Cô Trúc có họ Mặc Thai, tên Duẫn, bởi vì ông là anh cả, sau khi mất có thụy là "Di" cho nên về sau mọi người gọi ông là Bá Di, ông từng cùng em trai Thúc Tề khuyên can Chu Vũ Vương không nên thảo phạt Trụ Vương nhà Thương. Chu Vũ Vương chí lớn bao trùm thiên hạ, sao có thể chịu nghe lời như vậy, kết quả diệt Thương chiếm được thiên hạ. Anh em Bá Di, Thúc Tề không chịu làm dân nhà Chu, ăn lương thực nhà Chu, hai anh em vào núi Thú Dương chịu đói mà chết.

Bá Di, Thúc Tề, khuôn mặt gầy guộc, ánh mắt kiên định, tinh thần, phong thái sống động trong “Thái vi đồ” của Lý Đường thời Tống. (Phạm vi công cộng)

Sau khi Bá Di chết, hậu duệ ông lấy chữ "Bá" làm họ. Cũng giống như vậy, thời Xuân Thu, con cháu Trọng Thúc Vu Hề - đại phu nước Vệ - lấy "Trọng Thúc" làm họ.

Bo Yi.png
Chân dung Bá Di trong "Lịch đại danh thần tượng giải" đời Thanh.

Chín, hoàng đế ban họ cho

Đế vương thời cổ có lúc để lấy lòng người lãnh đạo các dân tộc thiểu số ở biên cương, hoặc để thưởng cho công thần, mà ban cho được cùng họ với hoàng đế. Như thời Đường sơ công thần khai quốc Từ Tích được ban cho họ Lý, thời Đường mạt ban cho thủ lĩnh tộc Sa Đà họ Lý, như Lý Khắc Dụng, Lý Tồn Úc, cũng từng ban họ Lý cho vua Tây Hạ của người Đảng Hạng, như Lý Nguyên Hạo; triều Tống cũng phỏng theo, ban lại cho vua Tây Hạ họ Triệu, thế là Lý Nguyên Hạo lại biến thành Triệu Nguyên Hạo. Thời Minh mạt, để cổ vũ Trịnh Thành Công (tên gốc là Trịnh Chi Long) phản Thanh phục Minh, Minh Thiệu Tông Chu Duật Kiện đã ban cho ông họ Chu, và đổi tên là Thành Công, do đó Trịnh Thành Công còn được gọi là "Quốc tính gia" .

undefined
Trịnh Thành Công là bậc kỳ tài hiếm có trong lịch sử Trung Quốc, là nhân vật không thể lãng quên trong lịch sử phát triển Đài Loan. (Phạm vi công cộng)

Phương pháp ban họ này thường được hoàng đế người Hán dùng để ràng buộc, vỗ về hoặc cổ vũ quần thần, nhưng người Hồ khi kiến lập vương triều, cũng thích sử dụng. Ví như thị tộc Vũ Văn của dân tộc Tiên Ti khi kiến lập Bắc Chu, đã từng ban cho Dương Kiên (người kiến lập triều Tùy, được phong là Tùy Công thời Bắc Chu) họ “Tấn Lục Như” (đây là dịch âm tiếng Tiên Ti, nghĩa là gì thì hiện nay chưa khảo cứu được), cũng từng ban cho tổ tiên Lý Uyên (người kiến lập triều Đường, tổ tiên từng làm quan thời Bắc Chu) họ "Đại Dã" (cũng là dịch âm tiếng Tiên Ti). Qua đó có thể thấy rằng người Hồ hay người Hán đều thích dùng chiêu thuật này.

Ngoài ra còn có việc lấy họ gần. Ví như triều Hán và Hung Nô tiến hành kết thân, nói đúng ra là triều Hán triều phong cho nữ giới trong cung (đương thời gọi là lương gia tử) làm công chúa, gả cho Thiền Vu của người Hung Nô (người Hung Nô gọi người đứng đầu là Thiền Vu). Trải qua thời gian lâu, đến đời sau, có một số quý tộc Hung Nô sống lẫn cùng người Hán, tự nhận là cháu đằng ngoại của hoàng đế triều Hán, có thể lấy họ của đằng cậu được, cho nên thời Ngụy Tấn, có rất nhiều quý tộc Hung Nô đều mang họ Lưu, như Lưu Uyên (kiến lập chính quyền cũng gọi là Hán, sử gọi Hán Triệu hoặc Tiền Triệu), Lưu Báo, Lưu Diệu, Lưu Vệ Thần v.v...

Lại đến khi Bắc Nguỵ Hiếu Văn Đế thi hành Hán hóa toàn diện, thì có một mục là sửa họ Tiên Ti thành họ Hán, thế là có rất nhiều họ đa âm tiết của người Tiên Ti đổi thành họ đơn hoặc họ phức của người Hán, như Khâu Mục Lăng đổi thành Mục, Bộ Lục Cô đổi thành Lục, Hạ Lại đổi thành Hạ, Độc Cô đổi thành Lưu, Hạ Lâu đổi thành Lâu, Vật Nữu Vu đổi thành Vu, Hột Hề đổi thành Kê, Uất Trì đổi thành Úy, Thác Bạt đổi thành Nguyên v.v… - kiểu đổi họ này cũng tương đương với được vua ban họ cho.

Mười, để tránh họa mà đổi họ

Ví dụ như Trần Hoàn con của Trần Lệ Công thời Xuân Thu, vì nước Trần phát sinh nội loạn nên phải chạy trốn tới nước Tề, làm tới đại phu nước Tề, bèn sửa họ Trần thành họ Điền, văn vật cổ gọi là Điền Kính Trọng.

Lại như nhà quân sự Hàn Tín đầu thời Hán, bởi vì công cao lấn chủ, hơn nữa bệnh đa nghi của Lưu Bang khá nặng, liền mượn cớ đem Hàn Tín giết đi. Hậu duệ Hàn Tín để tránh phiền phức, liền đổi thành họ Hà.

Trong lịch sử Trung Quốc có rất nhiều ví dụ giống như chuyện hậu duệ của Hoàng Tử Trừng đầu thời Minh đổi thành họ Điền, đến nỗi đã trở thành mô-típ trong tiểu thuyết, rằng người nào đó tránh họa hoặc tránh kẻ thù truy sát, mà đổi họ và lưu lạc tha hương.

Cách đổi họ này cũng rất phổ biến ở Việt Nam. Một ví dụ điển hình là sau khi nhà Mạc bị diệt vong, một nhóm người họ Mạc chạy đến Nam Định lánh nạn, và đổi thành họ Phạm. Năm 1938, họ Phạm gốc Mạc ở thôn Ngọc Tỉnh, thị trấn Xuân Trường, huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định khi trùng tu từ đường và đào hồ bán nguyệt đã đào được thanh "Định Nam đao" của Mạc Thái Tổ.

Mười một, con cái vị thành niên theo mẹ tái giá mà đổi họ

Con cái vị thành niên được mẹ đưa theo khi tái giá để tiện nuôi nấng, do đó đổi theo họ của người chồng mới. Loại sự việc này thì trong lịch sử có quá nhiều, tới thời hiện nay cũng là việc thường thấy.

Thời cổ con cái vị thành niên theo mẹ tái giá, thường thường sau khi thành niên, nếu như có công danh, sẽ đổi lại họ nguyên gốc, để làm rạng rỡ tổ tông, như Phạm Trọng Yêm thời Tống, khi còn bé mất cha, theo mẹ tái giá với nhà họ Chu, liền mang họ Chu, về sau đỗ đạt công danh, liền nhận tổ quy tông, khôi phục họ Phạm.

Hình Phạm Trọng Yêm. (Phạm vi công cộng)

Mười hai, vì ở rể mà đổi họ

Người Trung Quốc, nhất là người Hán, đặc biệt coi trọng quan niệm dòng dõi, cho rằng ‘bất hiếu hữu tam, vô hậu vi đại’, cho rằng kế thừa hương hỏa tổ tông là trách nhiệm trọng đại của con cháu, mà trách nhiệm này phải do con trai gánh vác. Nếu như người nào đó chỉ sinh con gái, nhưng phải thừa kế hương hỏa tổ tông và tài sản, thì sẽ dùng phương pháp ứng biến, cưới chồng cho con gái và bắt ở rể, gọi là "Chuế phu" hoặc "Chuế tế”. Người ở rể này phải đổi sang họ vợ, như vậy con cái sinh ra là theo họ nhà gái, có thể kế thừa hương hỏa tổ tông.

Mười ba, vì xuất gia mà đổi họ

Ban đầu khi Phật giáo truyền vào Trung Quốc thì không có bao nhiêu tín đồ. Trước thời Tam Quốc còn không có người xuất gia làm sư, đến sau thời Nam Bắc triều, bắt đầu mới có người Trung Quốc thí phát quy y. Đương thời các vị cao tăng hơn phân nửa là từ Tây Vực tới, như Phật Đồ Trừng, Cưu Ma La Thập v.v… Theo tập quán của người Trung Quốc, đối với những người từ ngoại quốc đến thì đều lấy quốc gia nguyên quán làm họ.

Ví dụ như: Đến từ Thiên Trúc (hay Ấn Độ) thì họ Trúc, đến từ Thạch quốc ở Tây Vực thì họ Thạch, đến từ An quốc họ An, đến từ Cao Ly họ Cao v.v… Những đồ đệ xuất gia sẽ lấy họ của sư phụ làm họ, như Trúc Pháp Nhã, Bạch Pháp Tổ, Khang Pháp Sướng... tương đối hỗn loạn. Mãi cho đến khi đệ tử Đạo An của Phật Đồ Trừng (nguyên là họ Vệ) xuất hiện, ông cho rằng tổ sư sáng lập Phật giáo là Thích Ca Mâu Ni, người xuất gia đều quy y theo Phật tổ, nên lấy họ Phật tổ làm họ.

Cho nên kể từ Đạo An, tất cả tăng ni xuất gia đều lấy Thích làm họ, cho đến ngày nay hòa thượng, ni sư xuất gia ở trước pháp hiệu đều có một chữ “Thích”.

Mười bốn, họ được phiên âm của các dân tộc vùng biên cương

Từ sau khi Tần Thủy Hoàng thống nhất thiên hạ, nội địa Trung Quốc quần tụ rất nhiều dân tộc, trong đó do sự dung hợp của Hoa Hạ, Đông Di, Kinh Ngô, Bách Việt mà hình thành nên người Hán chiếm tuyệt đại đa số, hơn nữa hơn phân nửa tụ cư ở lưu vực Giang, Hà, Hoài, Hán, lấy nông nghiệp làm chính.

Ngoài người Hán, còn có rất nhiều dân tộc, hơn phân nửa phân bố ở khu vực biên cương, truyền thống gọi là dân tộc biên cương hoặc dân tộc thiểu số. Những dân tộc biên cương này cũng là thành phần cấu thành Trung Quốc, hơn nữa trong lịch sử cũng từng thành lập rất nhiều vương triều theo phương thức người Hán, thống trị đông đảo người Hán, như Ngũ Hồ thập lục quốc, Bắc Nguỵ, Đông - Tây Ngụy, Bắc Chu, Liêu, Kim, Nguyên, Tây Hạ, Thanh v.v….

Ngoài Nguyên, Thanh thống trị toàn bộ Trung Quốc, nếu như thống kê tỉ mỉ một chút, cộng tất cả thời gian thống trị cục bộ của các vương triều dân tộc Hồ thì còn lớn hơn thời gian thống trị của các vương triều người Hán. Cho nên có thể nói lịch sử Trung Quốc được người Hồ và Hán chung sức mà thành.

Nếu các dân tộc biên cương đã có vai trò quan trọng như vậy trong lịch sử, đương nhiên là có rất nhiều người thuộc dân tộc biên cương di cư vào nội địa. Bởi vì ngôn ngữ của họ và Hán ngữ không giống nhau, đặc biệt là các dân tộc phương Bắc, ngôn ngữ của họ đều là đa âm tiết, so với ngôn ngữ đơn âm của người Hán thì có sai biệt cực lớn. Lấy chữ Hán phiên âm danh tính của họ, có thể thấy rõ sự khác biệt với họ người Hán, như Độc Cô, Hạ Lan, Hô Diên, Uất Trì, Mộ Dung, Bác Nhĩ Tể Cẩm, Da Luật, Hoàn Nhan, Ái Tân Giác La, Diệp Hách Na Lạp v.v... Nếu họ di cư vào nội địa, bởi vì danh tính của họ không giống với người Hán, tự nhiên sẽ khiến cho người Hán nội địa chú ý, thậm chí tạo thành phiền phức. Vì để tránh tình hình như thế phát sinh, thường thường sẽ lấy âm đầu của họ hoặc chữ nào hài âm, hoặc dịch nghĩa họ của người Hồ sang từ tương đương trong tiếng Hán, ví dụ họ Bác Nhĩ Tể Cẩm của dân tộc Mông Cổ, thường thường dịch âm thành Bao, Bảo, Bạch; họ Mộ Dung đổi thành họ Mộ; Ái Tân Giác La dịch ra là họ Kim; Diệp Hách Na Lạp dịch ra là họ Diệp hoặc họ Na... Ví dụ như vậy có thể nói là nhiều không kể xiết.

(Còn tiếp)

Theo Lưu Học Diêu - Epochtimes

Hữu Đức biên dịch

Văn hoá Lịch sử


BÀI CHỌN LỌC

Họ, tên, tên chữ, tên tự của người xưa (2)