Nghệ thuật Tân cổ điển (P. 2): Thế lực ma quỷ đằng sau 'tôn giáo quốc gia mới'

Giúp NTDVN sửa lỗi

Vì những người phổ thông đại chúng khi đó không thể ngay lập tức thích nghi với cuộc sống mà không có Cơ đốc giáo, tà ác thấy khó mà đạt được mục đích tiêu diệt chính tín, thế là tà ác liền lập ra một số tà giáo để thay thế các tôn giáo truyền thống vốn có ban đầu.

Tiếp theo Phần 1

Đằng sau các loại "tôn giáo quốc gia mới"

Trong lịch sử, có rất nhiều nghệ sĩ có xu hướng vì quyền lực và lợi ích, nhưng lý do khiến David gây tranh cãi nhiều hơn trong thời kỳ này liên quan nhiều đến sự đàn áp tín ngưỡng chính thống của các thế lực chính trị mà ông phục vụ. Dù sao, vào hơn hai trăm năm trước, những người tin vào Thần vẫn còn rất phổ biến. Và việc hát Thánh ca và tuyên truyền cho một chế độ phủ nhận Thần thánh, chà đạp lên tín ngưỡng tôn giáo truyền thống và phạm phải tội ác thảm sát, quả thực là điều mà rất nhiều người còn có chính niệm khó có thể chấp nhận được.

Các sách giáo khoa lấy tà thuyết của Marx làm tôn chỉ luôn xuất phát từ góc độ quan điểm duy vật, cho rằng Cách mạng Pháp là do xung đột lợi ích kinh tế của các tầng lớp xã hội khác nhau, miêu tả mọi người thuộc mọi tầng lớp trong xã hội thành coi tiền là mạng sống và mọi thứ đều xuất phát từ tiền. Điều này khiến cho người ta trong tiềm thức cảm thấy như thể nhân loại từ xưa đến nay chỉ tín ngưỡng tiền tài. Thực tế, đó là những lời nói dối lừa bịp và thủ đoạn tẩy não.

Giết người đoạt của thường là những hoạt động mà những người cách mạng hoặc những tay súng cấp dưới say mê, và không thể thay đổi xã hội nếu không có một ý thức cốt lõi nhất định và một tổ chức, lãnh đạo tuân theo ý thức này. Từ cuối thế kỷ thứ 18 cho đến ngày nay, luôn có giả thuyết cho rằng Cách mạng Pháp được thúc đẩy bởi Hội Tam điểm do Illuminati kiểm soát, và có một số lượng lớn các thành viên Hội Tam điểm trong phái Jacobins, những người đã tuân thủ nghiêm ngặt một số yêu cầu tinh thần xử lý mọi mặt công việc.

Theo sử liệu, rất nhiều nhà lãnh đạo cách mạng vào thời điểm đó đã có một sự liêm chính về tôn giáo trong cuộc đời của họ. Mặc dù họ sử dụng lợi ích vật chất để kích động những người Sans-culottes (dân nghèo) thuộc tầng lớp thấp hơn và các loại lưu manh tạo phản trong xã hội, nhưng họ lại có những yêu cầu nghiêm ngặt đối với hành vi của mình. Đã có nhiều lời buộc tội khát máu hoặc cực đoan chính trị đối với nhóm người Robespierre, nhưng lại chưa có người nói cuộc sống cá nhân của họ xa xỉ hủ hóa như thế nào. Ngày nay, một số lượng lớn các nghiên cứu lịch sử ở phương Tây đã chỉ ra rõ ràng rằng, đằng sau Cách mạng Pháp, có một thứ tinh thần xuyên suốt từ đầu đến cuối, và tư tưởng chỉ đạo của nó cũng không phải là tiền. Ngay từ đầu các thế lực cách mạng đã nhắm vào tín ngưỡng, yêu cầu các linh mục hoàn tục, đóng cửa nhà thờ, rồi phát triển đến việc tàn sát giáo sĩ, rồi lại đến thành lập quốc giáo mới... Tất cả những hành động này đều có thể cho người ta một cảm giác rõ rệt: Nếu như nói cướp đoạt chính quyền chỉ là hành vi thủ đoạn, như vậy e rằng tiêu diệt chính tín mới là mục đích thực sự của bọn họ.

Để tiêu diệt tín ngưỡng đối với Thần, thế lực cách mạng do phái Jacobins đứng đầu không chỉ thủ tiêu các tôn giáo truyền thống, ép buộc các giáo sĩ hoàn tục, và còn tàn sát các giáo sĩ và tín đồ. Chỉ riêng trong "Thảm sát tháng 9" năm 1792, gần 1.400 tù nhân đã bị giết, mà hầu hết những người trong đó đều bị bắt tạm thời với nhiều tội danh vô lý. Trong số đó có 233 người từ chối tuyên thệ phụ tùng "Hiến pháp dân sự của các giáo sĩ" (Constitution civile du clergé). Trên thực tế, nhiều linh mục đã hoàn thành thủ tục tuyên thệ cũng bị bắt và bị giết trong phong trào này. Có thể thấy rằng, những cái gọi là tội danh và lý do đó chỉ là một cái cớ mà ác ma khát máu tùy tiện vin vào.

Việc đàn áp các tín ngưỡng truyền thống cũng được phản ánh trong việc ban hành lịch mới. Nghị sĩ vô Thần phái Jacobin Charles-Gilbert Romme và Nghị sĩ Claude Joseph Ferry phái Girondins, người đã bỏ phiếu hành quyết quốc vương, đã tổ chức một nhóm học giả và nhà khoa học để cùng phát triển. Lịch pháp truyền thống lấy năm sinh của Chúa Giê-su làm năm bắt đầu, ngày nay được gọi là sau Công Nguyên. Đồng thời, mỗi một ngày ở phương Tây cũng tương ứng với tên của một vị Thánh, những truyền thống này tồn tại cho đến ngày nay.

Tuy nhiên, lịch mới lúc đó được gọi là "Lịch cộng hòa Pháp" (Calendrier républicain) hoặc "Lịch Cách mạng Pháp" (Calendrier révolutionnaire français). Bởi vì coi tín ngưỡng tôn giáo là kẻ thù, thế là lấy ngày ra đời của nước Cộng hòa Pháp là ngày 22/9/1792 chỉ định là "ngày đầu tiên của năm đầu tiên của nước Cộng hòa", hơn nữa còn đem các tên tôn giáo hoặc Thần thoại của ngày và tháng ban đầu thay bằng tên của thực vật, khoáng sản, động vật, hiện tượng tự nhiên và các từ ngữ duy vật và vô Thần khác. Động thái này nhằm cắt đứt mối liên hệ giữa lịch pháp và tôn giáo truyền thống cũng như xóa bỏ dấu vết của tín ngưỡng chính giáo trong đời sống người dân.

Ví dụ, các từ "Brumaire" (Tháng sương mù) và "Thermidor" (Tháng nóng nực) thường xuất hiện trong lịch sử Cách mạng Pháp không phải là các từ truyền thống của Pháp, mà được tạo ra mới để bài trừ các từ gốc của tháng truyền thống. Loại lịch pháp này có hiệu lực từ ngày 6 tháng 10 năm 1793 thông qua một đạo luật, và tiếp tục được sử dụng đến ngày 9 tháng 9 năm 1805, sau đó bị Napoléon bãi bỏ. Nhưng vào năm Công xã Paris 1871 nó đã có một sự hồi sinh ngắn ngủi, được sử dụng trong 8 ngày vào tháng Năm.

Từ một số tác phẩm nghệ thuật được lưu truyền vào thời đó, chúng ta vẫn có thể thấy rằng vì tầng lớp thấp đố kỵ với phong cách hoa lệ của giới quý tộc, bởi vậy phong tục xã hội, sinh hoạt và thậm chí cả quần áo đều bị cách mạng hóa, ví dụ như mọi người bị yêu cầu phải hủy bỏ tóc giả và những bộ đồ thời trang lộng lẫy... Không chỉ vậy, có thể thấy trong các tài liệu lịch sử, khi nói chuyện mọi người thường sử dụng thuật ngữ hành chính “công dân” (Citoyen, Citoyenne) để thay thế cách xưng hô truyền thống như “Monsieur” (Quý ông) và “Madame” (Quý bà), và một số người thuộc bè cánh cộng sản thời kỳ đầu thì gọi nhau là "Đồng chí" (Camarade)…

Mặc dù những hiện tượng xã hội hỗn loạn này đã tác động đến suy nghĩ truyền thống của con người, nhưng quan niệm của con người không thể thay đổi ngay lập tức. Vì những người phổ thông đại chúng khi đó không thể ngay lập tức thích nghi với cuộc sống mà không có Cơ đốc giáo, tà ác thấy khó mà đạt được mục đích tiêu diệt chính tín, thế là tà ác liền lập ra một số tà giáo để thay thế các tôn giáo truyền thống vốn có ban đầu.

Vào mùa thu năm 1793, Jacques-René Hébert và Pierre-Gaspard Chaumette, những người vô Thần ở Công xã Paris, đã giới thiệu một tôn giáo vô Thần luận sùng bái lý tính (Culte de la Raison) làm quốc giáo của Pháp. Trong đó, loại "tôn giáo" này phủ định tất cả các vị Thần, chỉ tôn trọng lý tính của con người. Bởi vì để thủ tiêu Cơ đốc giáo, một số tòa nhà tôn giáo ban đầu như Nhà thờ Đức Bà Paris đã được biến thành "Đền thờ Lý tính" (Temple de la Raison), được sử dụng để cử hành nghi thức cúng bái một "Nữ thần lý tính" (Déesse de la Raison) hư cấu vào ngày "Tết Lý tính" (Fête de la Raison),.

Chú thích: Bức tranh khắc "Fête de la Raison" (Tết Lý tính), 15 × 9,5 cm, không rõ tác giả, vẽ năm 1793.

Những ai từng nghiên cứu triết học có thể dễ dàng nhận thấy dấu vết của tư tưởng Phong trào Khai sáng đằng sau tà giáo đề cao lý tính của con người nhưng lại phủ nhận Thần này. Tên tiếng Pháp chính thức của "Kỷ nguyên Khai sáng" là "Siècle des Lumières", được dịch theo nghĩa đen là "kỷ nguyên của ánh sáng"; vào nửa sau của thế kỷ XVII, thuật ngữ "Siècle éclairé" cũng xuất hiện, có thể được dịch theo nghĩa đen là "kỷ nguyên được chiếu sáng bởi ánh sáng" ". "Quang Minh Hội" hoặc "Quang chiếu bang" (Illuminati) cũng vì vậy mà được đặt tên - "Thời kỳ Khai sáng" (Aevum Illuminationis) trong tiếng Latinh hoàn toàn giống với tiếng Latinh "Illuminati". Điều đáng nói là tên của ác quỷ Lucifer trong văn hóa phương Tây có nghĩa là "Porteur de lumière", tức là "kẻ mang lại ánh sáng". Vậy Illuminati và và Phong trào Khai sáng là do ai mang đến? Liệu "ánh sáng" do ma quỷ mang đến có thể là ánh sáng chân chính không?

Ngày nay nhiều người cho rằng Phong trào Khai sáng là tốt. Tại sao? Bởi vì trong sách giáo khoa chính là viết như thế, trong trường học đều dạy như thế. Nhưng trên thực tế, Phong trào Khai sáng là một chiến dịch tẩy não tất cả những người bình thường có tư tưởng truyền thống lúc bấy giờ, nhằm gạt bỏ chính tín của con người ra khỏi hệ tư tưởng, và tạo cơ sở lý luận cho cuộc cách mạng giết người sau này. Đám người trong Phong trào Khai sáng kia các ngành các nghề đều có, nhưng họ có một điểm chung rất lớn, đó là nhất trí trong việc chống lại tín ngưỡng tôn giáo truyền thống. Bọn họ mô tả thời đại của tín ngưỡng thành kính đối với Thần là thời đại đen tối, tự gọi mình là "Những nhà khai sáng" (Hommes des Lumières), nhằm tiêu diệt tín ngưỡng, đem "ánh sáng” ma quỷ đến nhân gian, thành lập "thời đại ánh sáng”.

Những nhân vật lỗi lạc trong Thời đại Khai sáng, những nhà tư tưởng, triết học, xã hội học, nhà lý luận nổi tiếng, ... kỳ thực đều được chọn lọc đưa vào sách giáo khoa. Lấy giáo dục bắt buộc của Trung Quốc làm ví dụ. Đảng Cộng sản Trung Quốc có mục đích đưa một số danh nhân lịch sử có quan điểm ủng hộ cộng sản vào sách giáo khoa một cách có chọn lọc, để người Trung Quốc có thể xây dựng thế giới quan và nhân sinh quan lịch sử do tà ác hoạch định ngay từ khi còn nhỏ. Với thông tin tương đối cởi mở ngày nay, sự xâm nhập của Hội Tam điểm và Illuminati trong lịch sử đã là một chủ đề mở, không còn là một bí mật gì ghê gớm. Mà nhiều nhân vật nổi tiếng trong lịch sử quen thuộc đối với người Trung Quốc kỳ thực là thành viên của Hội Tam điểm, chẳng hạn như Voltaire, người luôn lăng mạ Cơ đốc giáo, Paul Thiry d'Holbach, người trắng trợn tuyên truyền vô Thần luận, và Montesquieu - người công khai phản đối quân quyền Thần thụ, v.v.

Bởi vì thời đại đã lâu, có người mặc dù không có 100% bằng chứng lịch sử thuyết phục để chứng minh rằng họ là thành viên của Hội Tam điểm, nhưng họ có liên hệ mật thiết với Hội đó và hợp tác chặt chẽ, chẳng hạn như nhà duy vật Denis Diderot, người đã viết sách luận chứng thuyết vô Thần. Nhưng nhiều vị Thánh nhân nổi tiếng trong lịch sử phương Tây thì lại không hề được biết đến ở Trung Quốc, và họ thậm chí còn bị các cơ quan chính phủ kiểm soát khống chế không cho truyền bá. Đối với giới trí thức ở Trung Quốc ngày nay, những người tùy ý khinh nhờn Thần linh ở mọi thời đại, chẳng hạn như Voltaire ở thế kỷ 18 và Friedrich Nietzsche ở thế kỷ 19, tốt hơn nhiều so với Vua Louis IX (vị vua được sắc phong làm Thánh đồ nước Pháp, nổi tiếng với sự thành kính và nền chính trị nhân từ, đức hạnh). Điều này không thể không nói là kết quả của sự khống chế. Các học giả căn bản không nghĩ rằng hầu hết những người nổi tiếng mà họ nghiêm túc nghiên cứu và sùng bái là những kẻ điên cuồng đấu Trời đấu Đất, còn những người tốt thì họ lại biết rất ít.

Loại "quốc giáo" vô Thần luận "sùng bái lý tính" này hoàn toàn không thể khiến người ta tin phục, nhất định là đoản mệnh. Sau khi băng đảng của Eber thất thế và bị giết trong cuộc tranh giành quyền lực vào mùa xuân năm 1794, Robespierre cho rằng dân chúng không thể chấp nhận chủ nghĩa vô Thần hoàn toàn, vì vậy bắt đầu thổi phồng một loại hữu Thần luận khác, phát minh một loại tín ngưỡng mới - Sùng bái tối cao (Culte de l' Être suprême) làm quốc giáo mới, sùng bái một vị Thần tự nhiên không xác định nào đó, và ra mắt "Tết Tối cao" (Fête de l'Être suprême) vào ngày 8 tháng 6 năm 1794. Khu vực Paris vào thời điểm đó đương nhiên do David phụ trách công tác tuyên truyền, và nó được tổ chức xung quanh những ngọn đồi nhân tạo của quảng trường Champ-de-Mars vào năm đó.

Bức tranh "Fête de l'Être suprême au Champ-de-Mars" (Tết Tối cao trên quảng trường Chiến Thần), Tác giả: Pierre-Antoine Demachy, vẽ năm 1794.

Phiên bản quốc giáo mới này rõ ràng bị ảnh hưởng bởi quan điểm của Voltaire quá cố. Voltaire là người theo khuynh hướng chủ nghĩa duy vật, mặc dù thừa nhận có quyền lực tối cao mà con người không biết để điều chỉnh sự vận hành của vũ trụ, nhưng ông lại phủ nhận mọi hiện tượng và Thần tích trái với quy luật tự nhiên. Ông ta tin rằng tất cả những người được xưng là Con của Thượng Đế đều là những câu chuyện lừa gạt của các thầy phù thủy, vì vậy ông ta căm thù Giáo hội Thiên Chúa và gán cho Cơ đốc giáo là mê tín mù quáng. Trong bức thư gửi Frédéric II của Phổ, ông thậm chí còn viết: “Chừng nào còn những kẻ lừa đảo và ngớ ngẩn, thì sẽ có tôn giáo” (Tant qu' il yaura des fripons et des imbéciles,il yaura des religions).

Sở dĩ ông ta dám lớn gan lớn mật tấn công các tôn giáo truyền thống trong thời đại đó, không thể tách rời mục đích và sự hỗ trợ của các thế lực nhóm đứng sau hậu thuẫn. Có thể thấy điều này từ "Bách khoa toàn thư" (Encyclopédie) mà Diderot, Voltaire, Holbach, Jean Le Rond d'Alembert và các nhà Khai sáng khác đã biên soạn. Những hành vi này mục đích là lợi dụng tri thức khoa học thực chứng và quan điểm vô thần luận trên hình thái ý thức thay thế tôn giáo tín ngưỡng, và đặt nền tảng tư tưởng cho sự phá hủy trật tự xã hội truyền thống.

Trên thực tế, mọi người đều biết rằng những tà giáo kỳ quái không cách nào lừa gạt đại chúng, bọn chúng như phù dung sớm nở tối tàn dựa vào sức mạnh của các thế lực lưu manh và uy hiếp tàn sát. Với sự sụp đổ của Công xã Paris vào năm 1795 và sự thay thế của các lực lượng vũ trang, không mấy người thực sự tin vào cái gọi là “tôn giáo” do những người kia chế tạo. Vài năm sau, những thứ mới như "Bác ái giáo" (Théophilanthropie) cũng xuất hiện, nhưng chúng không gây ra nhiều sóng gió. Tuy nhiên, loại này thường tung ra đời thực một loại "tôn giáo nào đó", từ trực quan làm suy yếu uy tín của tất cả các tôn giáo trong tâm trí mọi người.

Nghệ thuật chết

Từ mùa hè năm 1793 đến mùa hè năm 1794, tân phái Jacobins đã lãnh đạo Công xã Paris viết bạo lực khủng bố thành một tài liệu chính thức lần đầu tiên trong lịch sử nhân loại được biết đến như là quốc sách của chính phủ. Vào thời điểm đó, số người bị kết án tử hình ở Paris là 2.639 người, và tổng số người bị hành quyết ở Pháp là 16.594 người. Nhưng trên thực tế, còn có nhiều người hơn đã thiệt mạng mà không có bản án chính thức nào được tòa tuyên án. Bắt đầu từ ngày 10 tháng 6 năm 1794, Ủy ban An toàn Công cộng đã thông qua Luật Khai sáng được hậu thế gọi là thời kỳ "Đại khủng bố" (Grande Terreur). Từ ngày 10 tháng 6 đến ngày 27 tháng 7 cùng năm, trước khi Robespierre sụp đổ, luật pháp quy định mọi công dân có quyền bắt giữ những kẻ phản cách mạng và đồng bọn của chúng, và giao những người bị bắt cho các quan chức an ninh. Các quan chức an ninh phải ngay lập tức buộc tội những người bị bắt. Đồng thời, “Tòa án cách mạng” khét tiếng (Tribunal révolutionnaire) cấm bị cáo không được thuê luật sư hoặc tự bào chữa, không được kháng cáo bản án và quy định án tử hình là hình phạt duy nhất, và tất cả tài sản của người chết sẽ bị quốc hữu hóa.

Vì vậy, loại luật biến tướng cổ vũ tùy tiện giết người đoạt của này cho phép Tòa án Cách mạng tuyên án và xử tử hàng nghìn người trên máy chém. Các băng đảng xã hội cũng đã gán cho không ít người cái gọi là "phần tử phản cách mạng”, rất nhiều người bị bắt và bị xử tử chỉ vì bị tình nghi. Tất nhiên, còn có không ít người khác là vì có một chút ân oán cá nhân mà bị mượn cơ hội diệt khẩu. Trong tình thế hỗn loạn, có vô số sự cố xảy ra trong đó một số đám lưu manh tùy tiện tấn công kẻ yếu và gây ra cái chết.

Chúng ta đã biết rằng, loại điên cuồng khát máu và ham muốn máu tươi này đến từ những linh hồn ma quỷ. Mặc dù trong hiện thực thể hiện ra là bạo lực và thảm sát đang từng bước leo thang theo cách giải thích của lịch sử, nhưng chính là do linh hồn ma quỷ đã tồn tại từ lâu và đang ảnh hưởng đến tâm trí của con người. Điều này có thể được phản ánh trong các tác phẩm nghệ thuật có mối tương liên chặt chẽ với tư tưởng của con người.

Vẫn lấy họa sĩ đại diện lúc bấy giờ là David làm ví dụ. Một đặc điểm trong các tác phẩm ban đầu của David là ông thích vẽ người khác chết như thế nào. Trước khi thất thế vào năm 1794, ông đã vẽ ít nhất 10 tác phẩm về chủ đề cái chết, và thậm chí một nửa trong số các tiêu đề trực tiếp là "Cái chết của XX", ví dụ:

"Cái chết của Sénèque" (La Mort de Sénèque, 1773)
"Tang lễ của Patrocle" (Les Funérailles de Patrocle, 1778)
"Đấng Christ trên Thập tự giá" (Le Christ en croix, 1782)
"Nỗi bi ai của Andromaque trước thi thể của chồng" (La Douleur et les Regrets d'Andromaque sur le Corps d'Hector son mari, 1783)
"Cái chết của Socrate" (La Mort de Socrate, 1787)
"Người hầu mang xác con trai trở về cho Brutus" (Les licteurs rapportentà Brutus les Corps de ses fils, 1789)
"Cái chết của Lepeletier" hoặc "Những khoảnh khắc cuối cùng của Lepeletier" (La Mort de Lepeletier de Saint-Fargeau ou Les Derniers Moments de Michel Lepeletier, 1793)
"Cái chết của Marat" (La Mort de Marat, 1793)
"Marie-Antoinette tới Máy chém" (Marie-Antoinette conduiteàl'échafaud 1793)
"Cái chết của Bara thời trẻ" (La Mort du jeune Bara, 1794) ...

Bức tranh "Lời thề của Horatii" (Le Serment des Horaces), Tác giả: David (Jacques-Louis David), vẽ năm 1784.

Bức tranh "Lời thề của Horatii" (Le Serment des Horaces), Tác giả: David (Jacques-Louis David), vẽ năm 1784.

Một số tác phẩm mặc dù nội dung không phải là cảnh chết chóc, nhưng những câu chuyện và ý tưởng đằng sau chúng cũng rất đáng sợ, chẳng hạn như tác phẩm nổi tiếng "Lời thề của Horatii" (Le Serment des Horaces, 1784) của ông. Tác phẩm kể về một câu chuyện: Vào thế kỷ thứ bảy trước Công nguyên, một cuộc chiến nổ ra giữa La Mã và nước láng giềng Albalonga, hai bên nhất trí mỗi bên chọn một nhóm ba anh em, và đấu trận ba chọi ba quyết định thắng thua.

Bên La Mã chọn ba anh em Horace, bên đối phương cử ba anh em Curiace. Kết thúc trận đấu là ba anh em của Curiace đều chết trong trận chiến, còn ba anh em của Horace thì chết hai. Khi người anh trai Horace duy nhất còn lại trong niềm hân hoan trở về, em gái anh ta là Camille đã nhận ra một chiếc áo khoác từ những chiến lợi phẩm của anh trai chính là chiếc áo mà cô đã may cho một trong những anh em nhà Curiace. Thì ra cô là hôn thê của người đàn ông này. Camille đau khổ khóc thảm thiết khiến anh trai cô không hài lòng nên đã giết cô và nói: "Tất cả những phụ nữ La Mã dám khóc cho kẻ thù đã chết đều phải bị xử tử như thế này".

Bức tranh “Những người hầu cận của Brutus đem xác con trai trở về” (Les licteurs rapportentàBrutus les Corps de ses fils), Tác giả: David, vẽ năm 1789.

Loại đề tài vứt bỏ nhân tính, cái được gọi là "đại nghĩa diệt thân", càng thể hiện rõ ràng hơn trong tác phẩm “Những người hầu cận của Brutus đem xác con trai trở về” (The Attendant Brutus Back the Corpses of His Sons, năm 1789) được tạo ra vào năm 1789 để phục vụ cho Cách mạng và tuyên dương ý tưởng cộng hòa: Năm 509 TCN, Lucius Junius Brutus phát động binh biến, trục xuất vua La Mã Lucius Tarquinius Superbus, trở thành người sáng lập và chấp chính chế độ Cộng hòa La Mã. Nhưng hai người con trai của ông lại có ý đồ lật đổ chế độ cộng hòa và khôi phục chế độ quân chủ. Lựa chọn giữa chế độ và các con trai của mình, Brutus đã hành quyết hai con trai ruột của mình để bảo vệ chế độ cộng hòa La Mã và quyền lực của mình.

(Còn tiếp)

An Nhiên
Theo SOH



BÀI CHỌN LỌC

Nghệ thuật Tân cổ điển (P. 2): Thế lực ma quỷ đằng sau 'tôn giáo quốc gia mới'