Nghệ thuật truyền thống: Đôi điều muốn nói

Giúp NTDVN sửa lỗi

Khi nghệ thuật truyền thống nói chuyện với trái tim chúng ta, đã ngầm định hướng hoặc cảnh báo chúng ta một cách nhẹ nhàng. Đồng thời, cung cấp giải pháp để biến chúng ta thành một con người cao thượng.

Vào năm 1708, nhà phê bình nghệ thuật người Pháp Roger De Roger de Piles viết trong cuốn "Nguyên lý trong hội họa" rằng: "Nghệ thuật thực sự của hội họa không chỉ làm con người niềm vui bất ngờ, mà còn vẫy chào chúng ta. Nàng hấp dẫn đến mức chúng ta vô thức muốn đến gần lắng nghe những gì nàng muốn nói".

Gần đây, một số triển lãm nghệ thuật truyền thống mùa đông lớn được tổ chức tại khắp nước Mỹ. Trong đó các tác phẩm được trưng bày đều chứa đựng những giá trị tốt đẹp. Sự xuất hiện của những tác phẩm nghệ thuật này giống như một chiếc lò sưởi ấm giữa mùa đông lạnh giá. Như de Pierce đã nói, "nghệ thuật truyền thống" đã nói lên nỗi lòng với chúng ta.

Ý nghĩa trong nghệ thuật

Giovanni Battista Gaulli, biệt danh là Baciccio. Bức tranh “Thánh Joseph bé Chúa hài đồng” một cách dịu dàng, thể hiện đức tin và tình cha con. Trong bức tranh, Thánh Joseph âu yếm nhìn cậu con trai đang vuốt bộ râu xoăn. Đó là một khung cảnh phổ biến, đáng yêu, đã kéo theo nhịp tim của chúng ta và dẫn dắt sự đồng cảm vào thế giới hội họa. Trên thực tế, bức tranh của Baciccio vượt qua mối quan hệ cha con. Bằng cách mô tả ánh hào quang của đứa bé, ông đã nâng bức tranh cùng người xem lên một tầm cao khác.


Giovanni Battista Gaulli, biệt danh Baciccio, đã ra đời tác phẩm Thánh Joseph bế Chúa hài đồng, vào khoảng năm 1670-1685. Tranh sơn dầu trên canvas; 50 inch x 38 1/4 inch. (Norton Simon Foundation)

Mặc dù, chủ đề "Đức Mẹ và Chúa hài đồng" và "Joseph và Chúa hài đồng" thường thấy. Nhưng các tác phẩm nghệ thuật về cả hai chủ đề đều dựa trên những ý tưởng sáng tạo giống nhau, để giúp con người biết cách trầm tư và cầu nguyện ở tôn giáo.

Một triển lãm tại Bảo tàng Norton Simon, Pasadena, California, về "Expressive Body Tension: Memory, Devotion, Desire (1420-1750)". Trong số đó, tranh của Baciccio cũng được đưa vào triển lãm hơn 60 bức, có bản vẽ, bản in cùng các tác phẩm điêu khắc khác. Các tác phẩm được trưng bày lấy từ các bộ sưu tập của Bảo tàng Norton Simon, và nhiều tác phẩm trong số chúng lần đầu tiên được trưng bày ra công chúng.

Những người yêu nghệ thuật ngày nay, khi chiêm ngưỡng các tác phẩm nghệ thuật ở các công trình nhân tạo như viện bảo tàng và phòng trưng bày, chúng ta phải đứng trước hàng rào dây thừng hoặc tủ kính. Điều này khác xa với ý định ban đầu của các nhà nghệ thuật gia.

Triển lãm này giúp mọi người tương tác với các nhân vật trong các tác phẩm nghệ thuật ở quá khứ. Những tác phẩm này từng được trưng bày trong gia đình, nhà thờ và tủ của các nhà sưu tập nghệ thuật. Dùng một chủ đề rõ ràng, để hiểu về cống hiến, truyền dạy hoặc nâng cao ý thức đạo đức con người.


Virgin and Child With Four Angels and Two Cherubim của Francesco Botticini, khoảng năm 1470-1475. Tempera tempera, nguyên bản; 25 3/4 inch x 19 1/2 inch. (Norton Simon Foundation)

Người xem có thể trải nghiệm cận cảnh những tác phẩm nghệ thuật này. Các nhà sưu tập đã từng trực tiếp chạm vào các bức tranh và tác phẩm điêu khắc khi đánh giá các tác phẩm nghệ thuật, lớp gỉ (một lớp mỏng màu xanh lá cây do các vật thể được xử lý hoặc tiếp xúc với các yếu tố nhất định trong không khí) trên bức tượng đồng Venus trưng bày trong gian) là bằng chứng. Các cặp vợ chồng đang mong mang thai có thể chiêm ngưỡng những bức tranh về các cặp đôi đẹp, và cầu mong một em bé khỏe mạnh. Các tín đồ có thể chiêm ngắm sự đau khổ của các vị tu đạo thông qua các bức tranh hoặc tác phẩm điêu khắc, phát triển lòng từ bi, thành tín để đưa mình đến gần với Chúa hơn.


Cận cảnh tác phẩm điêu khắc The Virgin Annunciate, nửa đầu thế kỷ 14. Đá cẩm thạch; 37 "x 11" x 6 1/2 ". (Norton Simon Foundation)


Virgin Annunciate của Agostino di Giovanni, nửa đầu thế kỷ 14. Đá cẩm thạch; 37 "x 11" x 6 1/2 ". (Norton Simon Foundation)

Truyền thống thiêng liêng

"Việc sử dụng vật phẩm thờ trong tín ngưỡng vẫn là một truyền thống và là sợi dây xuyên suốt qua nhiều thế hệ". Giám đốc của Nghệ thuật Châu Âu, Louis L. và Adelaide C. Ward, Bảo tàng Nghệ thuật Nelson-Atkins, Thành phố Kansas, Missouri Aimee Marcereau DeGalan, cho biết tại một cuộc họp báo.

Chín bức tranh và tác phẩm điêu khắc từ những năm 1400 đến những năm 1730 hiện đang được trưng bày tại bảo tàng với tiêu đề “Trân phẩm cống hiến: Bộ sưu tập nghệ thuật tôn giáo Van Ackeren thuộc Đại học Rockhurst”.


(Trái sang phải) Tác phẩm Đầu Đức Mẹ của Giuseppe Mazza, khoảng năm 1700-1725; bằng đá cẩm thạch. Đức Mẹ Vô Nguyên Tội của Peter Strudel, khoảng năm 1700; bằng đá cẩm thạch. Gia Tộc Thiêng Liêng của Giuseppe Maria Crespi, khoảng năm 1730; sơn dầu trên vải. Bộ sưu tập nghệ thuật tôn giáo của Van Ackeren, Phòng trưng bày Greenlease, Đại học Rockhurst. (Gabe Hopkins / Bảo tàng Nghệ thuật Nelson-Atkins)

Triển lãm nhỏ này cho thấy cách các tín đồ theo đạo Cơ đốc sử dụng các tác phẩm nghệ thuật để hướng dẫn và làm sâu sắc đức tin của họ theo những cách khác nhau.

Thông qua hội họa tôn giáo và điêu khắc, các nghệ sĩ trong quá khứ đã truyền đạt chân lý một cách hiệu quả cho phần lớn dân số mù chữ. Các hoạ sĩ truyền cảm xúc thực tế vào các tác phẩm nghệ thuật, một loại hình nghệ thuật được hình thành ở Tây Âu từ năm 1300. Người xem cảm động và hiểu sâu hơn về tâm linh, nhờ đó họ có thể đến gần hơn với Chúa.


Đầu Đức Mẹ của Giuseppe Mazza, khoảng năm 1700-1725; bằng đá cẩm thạch. Món quà cho ông bà Elmer Pierson để tưởng nhớ bà Daisy C. Kahmann; Bộ sưu tập nghệ thuật tôn giáo Van Akron, Phòng trưng bày Green Reese của Đại học Rockhurst. (Gabe Hopkins / Bảo tàng Nghệ thuật Nelson-Atkins)

Các tín đồ bày tỏ lòng thành kính đối với Chúa thông qua những hình ảnh mang hàm ý thành kính. Đồng thời, cũng phó thác nỗi niềm và niềm vui của mình vào đó.


"Thánh Nữ Đứng", khoảng năm 1450-1460, không rõ tác giả; chất liệu có thể là gỗ trầm. Lễ vật cho Gia đình Robert C. Greenlease; Bộ sưu tập nghệ thuật tôn giáo Van Akron, Phòng trưng bày Greenlease, Đại học Rockhurst. (Thuộc Gabe Hopkins / Bảo tàng Nghệ thuật Nelson-Atkins)

Triển lãm có một bức tượng Thánh Nữ đứng trang nghiêm, có lẽ được tạc từ gỗ trầm. Không rõ bức tượng người Đức thế kỷ 15 đang miêu tả vị Thánh nào, vì không có dấu hiệu nào về danh tính của bà. Bà đưa bàn tay trái của mình ra, có thể là gợi ý duy nhất về danh tính. Ví dụ, Thánh Catherine sẽ cầm một cuốn sách, và Thánh Barbara sẽ cầm một thanh kiếm hoặc chén Thánh. Ghi chú bên cạnh bức tượng nói như vậy.

Đức Mẹ Vô Nguyên Tội của Peter Strudel là một tác phẩm điêu khắc bằng đá cẩm thạch tuyệt đẹp. Đức Mẹ Maria đầy kinh ngạc đã nín thở và nhìn chăm chú vào Đức Chúa Trời. Tác phẩm điêu khắc trang trọng đại diện cho thời điểm mà người theo đạo Cơ Đốc tin rằng: khi Đức Chúa Trời tạo ra Maria, là bà đã thoát khỏi nguyên tội.


Đức Mẹ Vô Nguyên Tội của Peter Stroudel, khoảng năm 1700; bằng đá cẩm thạch. Lễ vật Gia đình Robert C. Greenlease; Bộ sưu tập nghệ thuật tôn giáo Van Akron, ở phòng trưng bày Greenlease, Đại học Rockhurst. (Gabe Hopkins / Bảo tàng Nghệ thuật Nelson-Atkins)

Đức Mẹ Maria của Strudel dễ dàng làm chúng ta cảm động, bởi cử chỉ của Đức Mẹ rất thật, ai mà không nín thở ôm ngực trong vài giây phút kinh ngạc? Strudel có chủ ý sử dụng các biểu tượng Cơ Đốc để truyền đạt chắc chắn không phải là dùng một cảnh vật bình thường. Đức Mẹ Maria đứng trên thiên thể với con rắn cắn quả táo dưới chân. Con rắn này cảnh báo chúng ta rằng, con người bị cám dỗ ngay từ khi mới sinh ra. Tuy nhiên, nhờ nhân đức của mình, Đức Mẹ Maria đã chứng minh rằng đức tin có thể trừ sạch tội lỗi. Dưới chân Đức Mẹ, Thiên Thần nhỏ hạnh phúc Cupid đang vui mừng vì sự xuất hiện của Đức Mẹ.

Theo ghi chú trên thẻ tiêu đề bên cạnh tác phẩm điêu khắc, vào những năm 1600, các nghệ sĩ đã tạc các biểu tượng đại diện cho các khái niệm cốt lõi của Cơ Đốc giáo. Ví dụ, như tác phẩm nghệ thuật về Đức Mẹ Vô Nguyên Tội, thì sẽ thể hiện Đức Mẹ Maria đang ôm ngực kính úy, hoặc chắp tay cầu nguyện. Trăng non (trong tác phẩm điêu khắc của Strudel) hay vương miện ngôi sao như trong tranh của Rubens và Giovanni Battista Tiepolo, tượng trưng cho mặt trời. Bởi vì, các tín đồ Cơ Đốc giáo tin rằng Đức Mẹ được mặc áo choàng mặt trời và đặt chân lên mặt trăng.

Nghệ thuật thiêng liêng ở Mỹ Latinh

Nghệ thuật thiêng liêng là một trọng tâm triển lãm khác của bảo tàng. Triển lãm, khai mạc vào tháng 2, trưng bày 15 bức tranh Tây Ban Nha từ Peru, Bolivia và Ecuador, có tiêu đề "Những bức tranh Nelson-Atkins từ Bảo tàng Tây Ban Nha Châu Mỹ Latinh: Bộ sưu tập Tomma. Những bức tranh được tạo ra trong thời kỳ cai trị của Tây Ban Nha, đều được các du khách đến thăm, bất luận là giải trí, cầu nguyện hay chiêm ngưỡng.


Thánh Mẫu Mongui Của Chúng Ta, thế kỷ 17 (thế kỷ 18 được thêm trang sức bằng vàng) của nghệ sĩ Colombia. Sơn dầu và vàng, nguyên bản; 12 11/16 inch x 10 3/16 inch. Bộ sưu tập của Quỹ Carl & Marilynn Thoma. (Jamie Stukenberg / Karl and Marilyn Thomas Foundation)

Trong số các đế chế châu Âu, Đế chế Tây Ban Nha từng là đế chế lớn nhất và trị vì lâu nhất. Trong gần 500 năm, Tây Ban Nha đã cai trị một vùng lãnh thổ rộng lớn trải dài từ Nam Á đến Nam Mỹ.

Đô hộ của Tây Ban Nha đối với Châu Mỹ Latinh bắt đầu vào năm 1535, là thuộc địa của Tân Tây Ban Nha vùng đất ngày nay là Mexico, Trung Mỹ và một phần của miền Nam Hoa Kỳ. Đến năm 1542, châu Nam Mỹ (trừ Brazil và cực nam) trở thành khu vực trực thuộc của Peru.


Thiên sứ Michael the Archangel, cuối thế kỷ 17, 18, là của một nghệ sĩ Bolivia. Tranh Dầu trên vải; 67 1/8 inch x 38 7/8 inch. Bộ sưu tập của Quỹ Carl & Marilynn. (Jamie Stukenberg / Karl and Marilyn Thomas Foundation)

Các nghệ sĩ ở châu Âu đã thực hiện cuộc hành trình gian khổ vượt Đại Tây Dương đến châu Mỹ Latinh. Họ đã tạo ra nghệ thuật tôn giáo cho các gia đình, tu viện và nhà thờ, truyền bá nghệ thuật tôn giáo khắp châu Mỹ Latinh.

Đến thế kỷ 17, do ảnh hưởng từ các nghệ sĩ Ý, cũng như sao chép và cải biên các tác phẩm nghệ thuật du nhập từ châu Âu. Các hoạ sĩ châu Nam Mỹ đã phát triển một phong cách độc đáo về nghệ thuật Mỹ Latinh. Vào thế kỷ 18, nhiều trường học và trường cao đẳng nghệ thuật đã vươn lên trở thành những hội đồng tôn giáo và thế tục.

Ví dụ, trong bức Đức Mẹ Cocharcas, một hoạ sĩ người Peru không rõ danh tính đã mô tả một cách sống động những người hành hương núi Andes. Bức tranh tràn ngập những người hành hương mặc quần áo sặc sỡ, đi bộ lên núi để bày tỏ lòng kính trọng đối với Đức Mẹ.

Phong cách và tông màu của bức tranh này sẽ luôn gợi nhớ đến Người Nông Dân Hạnh Phúc của Pieter Bruegel.

Đức Mẹ Maria là trung tâm của tác phẩm, nhắc nhở người Công giáo đặt Đức Mẹ làm trọng tâm vào cuộc sống của họ. Đức Mẹ Maria cầm trên tay bức tượng Đức Mẹ Copacabana, là biểu tượng của cuộc hành hương đến Cocharcas vào thế kỷ 16.

Theo truyền thuyết, một tu sĩ Công giáo sống ở vùng Cochacas, được dẫn dắt bởi một người dòng, đã hành hương đến Đền Đức Mẹ Copacabana trên bờ Hồ Titicaca với mục đích chữa bệnh. Tuy nhiên, trên đường đến ngôi đền, ông thấy rằng tất cả các triệu chứng của mình đã biến mất. Vì vậy, ông nguyện dâng hiến phần đời còn lại của mình cho Đức Mẹ. Ông mang về một bức tượng nhỏ Đức Mẹ Copacabana, và đặt pho tượng ở giáo đường.

Điều nổi bật của các cuộc triển lãm này là các tác phẩm nghệ thuật đã được tạo ra vào khoảng 600 năm trước (thế kỷ 15). Các tác phẩm nghệ thuật được tạo ra dựa trên trải nghiệm chung của con người, truyền tải thông tin vượt thời gian và ngôn ngữ. Khi chúng ta trân trọng những nghệ thuật truyền thống này, chúng ta sẽ có thể kết nối với những di sản của tổ tiên để lại giá trị tốt đẹp vốn có của bản chất con người. Quả thực rất đáng để chúng ta nghiên cứu và phát triển!

Thuần chân
Theo Epochtimes



BÀI CHỌN LỌC

Nghệ thuật truyền thống: Đôi điều muốn nói