Trung Quốc giải mật hồ sơ: Ứng nghiệm tiên tri của người tu Đạo, giải mã nguyên nhân đằng sau tai họa

Giúp NTDVN sửa lỗi

[Radio] - Điều gì còn đáng sợ hơn cái chết? Đó là trước khi chết chịu đói. Năm đó tình hình bình thường, không có chiến tranh, cũng không có dịch bệnh, nhưng lại có mấy chục triệu người tử vong, thậm chí còn xảy ra thảm cảnh người ăn thịt người, gây ra bi kịch chưa từng có trong lịch sử nhân loại. Điều đáng sợ là hiện nay thảm kịch này lại đang lặng lẽ tiến về phía chúng ta.

Nghe thêm: Radio Văn Hóa

Năm Hoa 10 tuổi, ông nội qua đời. Khi đó ông nội 127 tuổi. Đó là vào những năm 1950 thế kỷ trước. Trước khi qua đời, ông nội gọi cả nhà già trẻ lớn bé, và tất cả họ hàng lại, sau đó ông tự mặc y phục cho người chết, nằm trên giường và ra đi.

Khi đó Hoa không cảm thấy đau buồn, bởi vì trong lòng Hoa, ông nội chính là Thần Tiên, sẽ không chết, chẳng qua là đến một thế giới khác mà thôi, khác với cái chết mà người lớn nói. Hoa vẫn nhớ hàng ngày ông nội đều ngồi vắt chân đả tọa. Nghe các bác các chú trong làng nói, ông nội là người tu Đạo.

Hoa cùng với các em bé khác trong nhà thực sự đều nhìn thấy ông nội đã đi xuyên qua tường. Ông nội còn gọi chim sẻ đang bay trên không trung xuống chơi. Những điều thần kỳ của ông nội còn nhiều nữa.

Biết trước sự việc

Dường như ông nội rất giỏi biết trước sự việc. Hoa có một người em gái họ, được mọi người rất yêu quý, nhưng ông nội lại nói, người em gái họ đó cuối cùng cũng không có kết cục tốt đẹp.

Năm 1958 xảy ra nạn đói, cả nhà đều bị đói, không có cơm ăn. Người nhà bèn đưa em gái họ đi xa trăm dặm, gửi người ta nuôi, để em có cơm ăn. Sau này bặt vô âm tín, quả đúng là không có kết cục tốt đẹp.

Ông nội nói, cô bé hàng xóm, người lớn bằng Hoa, sau này sẽ sinh 3 con, và còn nuôi thêm 3 đứa trẻ nữa. Kết quả thực sự đúng nhưng ông nội nói, cô bé đó sau này lớn lên đã sinh 1 trai 2 gái, sau lại nuôi 3 đứa cháu của 3 người con đó cho đến khi trưởng thành.

Càng không thể nào tưởng tượng nổi là, ông nội đã từng nói với mẹ của Hoa rằng, cha Hoa nhiều nhất cũng chỉ sống đến 40 tuổi. Năm cha 40 tuổi, ông đã là giám đốc cửa hàng bách hóa huyện. Không ngờ Cách mạng Văn hóa bùng nổ, cha bị phái tạo phản đoạt quyền lực, cả ngày ông bị đánh bị đấu tố, và bị hại chết.

Điều khiến người ta khó tin là, ông nội đã biết trước những chuyện quốc gia đại sự sẽ xảy ra trong tương lai.

Bi ca Thiên đường

Trong gia tộc của Hoa, vẫn luôn lưu truyền những tiên tri của ông nội về chuyện quốc gia đại sự. Ông nội đã từng nói, chớ thấy hiện nay chúng ta ăn cơm ở nhà, sẽ có này, già trẻ trong làng đều không được phép ăn cơm ở nhà, đều phải đi ăn cơm chung.

Quả nhiên, ngày 13 tháng 11 năm 1957, Nhân Dân Nhật Báo đăng bài xã luận, đưa ra khẩu hiệu :Đại nhảy vọt”. Năm 1958, phong trào chính trị “Đại nhảy vọt” đã triển khai trên toàn quốc. Đến mùa hè năm 1958, “Đại nhảy vọt” giống như mùa hè nóng bỏng lúc đó, rừng rực như lửa cháy lên đến cao trào.

Một gia đình chết đói, ngày không xác định trong thời gian diễn ra chiến dịch Đại nhảy vọt của Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ). (Phạm vi công cộng)
Một gia đình chết đói, ngày không xác định trong thời gian diễn ra chiến dịch Đại nhảy vọt của Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ). (Phạm vi công cộng)

Cùng với “Đại nhảy vọt” là sự nổi lên của Công xã nhân dân. Ngày 29 tháng 8 năm 1958, Trung ương ĐCSTQ ban hành “Nghị quyết về vấn đề xây dựng công xã nhân dân ở nông thôn”. Đến cuối năm 1958, toàn Trung Quốc đã xây dựng được 26.000 công xã nhân dân. 99% các hộ nông dân bị cưỡng chế biên chế vào hệ thống này, trở thành các xã viên. Tất cả tài sản của các hộ nông dân đề phải nộp cho công xã, tất cả đất đai, gia súc, cây trồng của xã viên đều quy về công xã sở hữu, tất cả các hoạt động kinh tế đều thống nhất hạch toán trong phạm vi công xã, lương thực và các nhu yếu phẩm đều thống nhất phân phối. Hạch toán và phân phối đều do các cán bộ kiểm soát.

Khi tra cứu tư liệu, khi nhìn thấy những phần này, liền hiểu rõ tại sao người sống trong thể chế của ĐCSTQ đều muốn làm quan. Thì ra, làm quan là có thể lấy tài sản của người khác làm của mình một cách hợp pháp. Như thế thấy rằng, Quốc Dân Đảng gọi ĐCSTQ là Cộng Phỉ, dường như không sai.

Công xã Cung Lý của thành phố Thái An, tỉnh Sơn Đông có một chàng trai tên là Kim Huấn, kết hôn cuối năm 1958. Sau khi kết hôn, mấy tháng trời không được về nhà, người vợ mới cưới đành phải đến công trường tìm anh. Đêm đó chỉ được ngủ với chồng trong chiếc lều công trường tập trung hàng trăm lao động nam. Người ngủ 2 bên đều là những nam thanh niên cùng làng, không có gì ngăn cách chen chắn. Hai người chỉ có thể ở cùng phòng như thế mà thôi.

Khi đó, chính quyền các cấp dốc sức thúc đẩy “Tổ chức quân sự hóa, hành động chiến tranh hóa, sinh hoạt tập thể hóa”, áp dụng hình thức “đại binh đoàn tác chiến” để tiến hành sản xuất công nông nghiệp, hơn nữa hết ngày dài lại đêm thâu, liên tục tác chiến. Nếu có người tự trở về nhà, bị dân quân bắt được thì sẽ bị đánh đến chết. Mọi người hoàn toàn mất đi cuộc sống gia đình và sự tự do hành động.

Không chỉ có vậy, còn kiểm soát thân thể tất cả mọi người rất nghiêm ngặt. Kiểm soát thế nào? Kiểm soát bằng cách “người không phục tùng thì không được ăn”. Cũng có nghĩa là, nếu anh không phục tùng thì không cho anh ăn cơm.

Một hôm, Phương Phương, người cùng làng với Kim Huấn, đến nhà ăn tập thể của thôn đến lấy thức ăn phân phối, không ngờ, cô phát cơm không phát cơm và thức ăn cho Phương Phương, cô cấp dưỡng nói rằng: “Đội trưởng đã nói, cha của Phương Phương có ngôn luận “phá hoại bếp ăn công cộng”.

Phương Phương đành phải khóc lóc tay không ra về. Do quy định của công xã, trong nhà bất kỳ người nào cũng không được tồn trữ lương thực. Công xã còn phái dân quân đến từng nhà lục soát. Ở nhà không có lương thực, bếp ăn không phát thức ăn, thì chính là lấy mạng của cả gia đình. Cả nhà chỉ còn cách nhẫn chịu cơn đói.

Hôm sau, mẹ Phương Phương phải đến chỗ đội trưởng nhận sai, nói rằng cha Phương Phương không nên nói câu “chất lượng món ăn của nhà bếp của đội, không bằng nhà bếp của đội bạn”, nhà bếp của đội chúng ta là tốt nhất. Như thế, đến ngày thứ 3, đội trưởng mới thông báo cho nhà Phương Phương là có thể đến nhà bếp lĩnh cơm và thức ăn.

Trước khi thực hiện chế độ công xã, các thôn đều là sản lượng cao quanh năm. Sau khi công xã hóa, cùng một mảnh đất, nhưng lại trở thành sản lượng thấp, thậm chí thất thu. Trước kia, gia súc béo khỏe, sau khi vào chuồng của công xã, con nào con nấy gầy trơ xương, thậm chí chết một lượng lớn. Hoa màu chín và rau trên cánh đồng, cũng không có người cẩn thận thu hoạch nữa, một lượng lớn nát rữa trên cánh đồng.

Quái dị nhất là, sau khi “công xã hóa”, khi mọi người sử dụng tài vật và ăn cơm, dường như đã quên mất truyền thống, không còn tiết kiệm nữa, không ăn thì phí, phần đen tối nhất trong nhân tính đã được thả ra toàn bộ. Thế là bếp ăn công cộng rất nhanh chóng đã không còn gạo nấu cơm nữa. Do lương thực sản lượng thấp, trưng thu lại quá nhiều, sau đó xuất hiện nạn đói quy mô lớn, khiến cho nhân khẩu nông thôn bị tử vong bất thường số lượng lớn.


Bếp ăn Công xã nhân dân. (Phạm vi công cộng)

Tại sao quyền được sinh tồn của người dân nông thôn, họ cũng không giữ lấy, mà lại 2 tay dâng cho người khác, để người khác quyết định vận mệnh mình?

Thì ra là từ năm 1953, Chủ tịch ĐCSTQ lúc đó là Mao Trạch Đông đã nói, giữa cung và cầu về lương thực, bông, rau, thịt và dầu ăn của thành phố, “đều có mâu thuẫn cực lớn”. Để giải quyết mâu thuẫn này, Mao Trạch Đông đã ‘nhập khẩu’ lý luận của Stalin, một trong những tổ tông của ĐCSTQ: “Cơ sở của quan hệ sản xuất chính là chế độ sở hữu”.

Trong quyển thứ 5 của “Mao Trạch Đông tuyển tập”, đã viết rõ cách nhìn của Mao Trạch Đông về vấn đề này. Ông ta nói: “Về dự tình này, chúng ta rất không có lương tâm. Chủ nghĩa Mác là hung như thế đó, lương tâm là không nhiều… nhưng về phương diện này, lương tâm ít một chút là tốt”.

Thế là, với tiền đề “Lương tâm ít một chút là tốt”, cuộc vận động dùng công xã nhân dân để tạo ra sự ‘tốt đẹp’ của ‘Thiên đường Xã hội Chủ nghĩa’ đã ra đời như thế. Thế là tất cả Thiên lý về chế độ sở hữu từ xưa đến nay đã bị lật đổ như thế này. Thế là Trung Quốc trở thành ‘Thiên đường’ mà ĐCSTQ tùy ý khống chế, mặc sức muốn làm gì thì làm.

Bức tranh Thiên đường

Có một bộ trước tác lịch sử đã tiết lộ về nạn đói do bếp ăn lớn đem lại mà ông nội của Hoa đã dự ngôn. Trước tác lịch sử này tên là “Mộ bia - ghi chép sự thực nạn đói những năm 1960 ở Trung Quốc”. Trước tác do cựu phóng viên cao cấp của Tân Hoa Xã là Dương Kế Thằng biên soạn, xuất bản tháng 12 năm 2008 ở Hong Kong, sau đó nhiều lần được tái bản và liên tục tạo lên cơn sốt bán chạy, Đài Á Châu Tự Do gọi nó là “Sách cấm ở Trung Quốc được bán chạy nhất”.


“Mộ bia - ghi chép sự thực nạn đói những năm 1960 ở Trung Quốc”. Sách cấm ở Trung Quốc được bán chạy nhất (Ảnh: hình ảnh sách bán trên Amazon)

Trong bộ trước tác này, Dương Kế Thằng đa rút ra kết luận là, từ năm 1958 đến 1962, tổng cộng có 36 triệu người Trung Quốc chết vì đói. Còn có 40 triệu người lẽ ra được sinh ra mà không được sinh ra. Điều này có nghĩa là, nạn đói khiến dân số Trung Quốc tổn thất khoảng 76 triệu người.

Khái niệm này là như thế nào? Con số này tương đương với 450 quả bom nguyên tử ném xuống Nagasaki, tức là gấp 450 lần số người chết trong vụ ném bom hạt nhân xuống Nagasaki.

Ngày 6 tháng 8 năm 1945, nước Mỹ ném một quả bom nguyên tử xuống Hiroshima, giết chết 71.000 người. Ngày 8 tháng 9, nước Mỹ ném một quả bom nguyên tử xuống Nagasaki, giết chết 80.000 người.

Con số này tương đương với 150 lần động đất Đường Sơn. Ngày 28 tháng 7 năm 1976, trong trận động đất lớn ở Đường Sơn, số người chết là 240.000 người.

Con số này còn vượt qua số lượng người chết trong chiến tranh thế giới lần thứ 1. Trong chiến tranh thế giới lần thứ 1, số người chết chỉ có hơn 10 triệu người.

Con số này cũng vượt qua số người Trung Quốc chết trong chiến tranh thế giới lần thứ 2. Số lượng người Trung Quốc chết trong chiến tranh thế giới lần thứ 2 là 18 triệu người.

Con số này còn vượt qua tất cả các nạn đói và thiên tai mất mùa trong lịch sử Trung Quốc.

Từ năm 1928 đến 1930, toàn Trung Quốc có 22 tỉnh bị thiên tai mất mùa. Lần thiên tai mất mùa này, được ghi chép là có số người chết nhiều nhất trong lịch sử Trung Quốc, cũng chỉ có 10 triệu người.

Theo sách “Lịch sử cứu đói Trung Quốc” của Đặng Vân Đặc, từ năm 1920 đến 1936, 17 lần thiên tai nạn đói, tổng cộng số người chết là 18.360.000 người.

Năm 1931, Trường Giang lũ lụt lớn, số người chết cũng chỉ là 140.000 người.

Nhưng năm 2013, kết luật này bị giáo sư toán học Đại học Sư phạm Giang Tô là Tôn Kinh Tiên cho là tin đồn. Ngày 23 tháng 8 năm 2013 và ngày 9 tháng 9 năm 2013, giáo sư Tôn viết bài trên “Báo khoa học xã hội Trung Quốc”, chỉ trích sách “Mộ bia” của Dương Kế Thằng có tác dụng truyền bá tin đồn.

Theo quyển 2 sách “Lịch sử ĐCSTQ”, 3 năm nạn đói, số người chết chỉ hơn 10 triệu người. Vậy sách “Mộ bia” của Dương Kế Thằng có phải là tạo và lan truyền tin đồn không?

上世紀50年代末60年代初的大饑荒,造成數千萬中國民眾死亡。(資料圖片)
Nạn đói Trung Quốc những năm 1959-1962. (Ảnh tư liệu qua epochtimes)

Hồ sơ giải mật

Tháng 9 năm 2005, hồ sơ trước đây coi là “3 năm nạn đói”, sau khi được chỉnh lý, đã chính thức giải mật, tiêu đề là “Tình hình tử vong bất thường ở các địa phương trên toàn quốc từ 1959 đến 1962”.

Tuy nhiên, hồ sơ giải mật lại nghiêm cấm công khai, chỉ cho phép một cách hạn chế một số cán bộ cao cấp được tiếp xúc với hồ sơ này, đồng thời quy định, tài liệu hồ sơ giải mật không được sử dụng làm tin tức, chính luận, hoặc tuyên truyền. Còn quy định, những ban ngành được phê chuẩn xem hồ sơ giải mật thì nhân viên phải đăng ký lưu hồ sơ, nghiêm ngặt hạn chế các cán bộ từ cấp sở trở lên.

Bất kể là hồ sơ giải mật này hạn chế công khai như thế nào, thì bởi vì không có bức tường nào là không có khe lọt gió, nên nội dung giải mật vẫn được truyền ra ngoài, và lan truyền nóng trên mạng năm 2009.

Theo tài liệu giải mật, tình hình nhân khẩu tử vong bất thường và do đói như sau:

  • Năm 1959, toàn Trung Quốc có 17 khu vực cấp tỉnh, tổng cộng 5,22 triệu người chết, trong đó nhân khẩu thành phố là trên 958.000 người.
  • Năm 1960, toàn Trung Quốc có 28 khu vực cấp tỉnh, tổng cộng số người chết là 11,55 triệu người, trong đó nhân khẩu thành phố là trên 2,72 triệu người.
  • Năm 1961, tổng số người chết ở các khu vực trên toàn Trung Quốc là 13,27 triệu người, trong đó nhân khẩu thành phố là trên 2,177 triệu người.
  • Năm 1962, tổng cộng số người chết ở các khu vực toàn Trung Quốc là trên 7,518 triệu người, trong đó nhân khẩu thành phố là trên 1,078 triệu người.

Theo số liệu thống kê này, ĐCSTQ tiến hành “Đại nhảy vọt”, lập các công xã đã gây ra số lượng người chết bất thường là 37,558 triệu người, so với con số 36 triệu người trong sách “Mộ bia” thì rất sát. Tuy nhiên con số này được thống kê năm 1959, số người chết ở 17 khu vực cấp tỉnh, chứ không phải toàn quốc, do đó nó vẫn còn thấp.

Mùa thu năm 1999, Dương Kế Thằng đến phường Cao Du, xã Phòng Hồ, huyện Hoài Tân, Tín Dương để tìm hiểu tình hình. Nông dân Dư Văn Hải, trên 70 tuổi, đã dẫn ông đến bên một cánh đồng lúa mạch bên ngoài làng. Ông lão chỉ vào mấy cái cây giữa ruộng lúa mạch và nói với Dương Kế Thằng rằng: “Nơi mọc cây đó, vốn là một cái hố lớn, hàng trăm thi thể xếp đống chôn ở trong đó”. Nếu không phải ông Dư Văn Hải chỉ ra thì không ai hay biết, trên cánh đồng lúa mạch xanh mướt và dưới mấy cái cây cao thẳng kia, đã chôn sâu một bi kịch.

Thảm kịch này không có tiếng khóc than kêu trời kêu đất, không có lễ nghi mặc áo đeo khăn tang, không có tiền vàng đưa tang, không có cảm thông, không có bi ai, không có nước mắt, cũng không có kinh hoàng và sợ hãi, mấy chục triệu người đã lặng lẽ ra đi như thế, tê liệt thần kinh rồi biến mất.

Có nơi dùng xe lớn, chở từng lô người chết ra hang đất ở đầu làng. Có nơi không đủ sức chôn lấp, tay và chân người chết còn thò ra ngoài. Có nơi người chết gục bên đường trong khi đang tìm kiếm đồ ăn. Vẫn còn rất nhiều người chết để trong nhà trong thời gian dài, bị chuột khoét mũi khoét mắt.

Lõi ngô cũng ăn hết rồi, rau dại cũng ăn hết rồi, vỏ cây cũng ăn hết rồi, đến phân chim, chuột, bông cũng được sử dụng để nhét vào bụng. Thi thể người chết, người đói từ nơi khác đến, thậm chí người thân của mình, cũng đều trở thành thức ăn cho khỏi đói.

Theo Dương Kế Thằng phỏng vấn, khi đó “người ăn thịt người” không phải là hiện tượng cá biệt. Ở một số huyện ở Tín Dương, ở Thông Vị, Cam Túc, ở Tứ Xuyên, người đương sự đã thuật lại chuyện ăn thịt người khiến người ta khiếp sợ.

Thời đó và mấy chục năm sau đó, tất cả sách báo của ĐCSTQ, tất cả các tài liệu nhà nước, luôn ra sức né tránh và che đậy đại bi kịch quy mô lớn của nhân loại này. Các cán bộ các cấp đối với việc người chết đói đều ngậm tăm. Đối với thống kê số người chết đói, các cán bộ các cấp đều làm giả, trăm phương ngàn kế co nhỏ số lượng. Để vĩnh viễn che đậy sự thực này, nhà cầm quyền còn ra lệnh, tiêu hủy tài liệu về sự giảm sút hàng mấy chục triệu nhân khẩu mà chính quyền các địa phương báo cáo lên.

Cha của Dương Kế Thằng cũng chết đói trong tai họa này. Trước khi tắt thở, tròng mắt hõm sâu, cánh tay khô đét. Cái chết của cha là nỗi đau mãi mãi trong tâm ông, cũng là nguyên nhân và động lực trực tiếp để ông làm rõ những “tin tức cũ” này. Ông đã dốc hết tâm lực trong hơn 10 năm để điều tra, nghiên cứu, cuối cùng cũng đã hoàn thành trước tác vĩ đại “Mộ bia” này. Nhưng ở Trung Quốc thì không thể xuất bản được, ông đàng xuất bản ở Hong Kong.


Tác giả Dương Kế Thằng và trước tác lịch sử "Mộ bia" của ông (Ảnh: apollo)

Người ta nói rằng, 2 tháng trước khi Triệu Tử Dương, cựu Tổng bí thư ĐCSTQ, qua đời, trên giường bệnh trong bệnh viện, đã xem hết quyển sách này. Ông đánh giá rằng: “Quyển sách này đặc biệt nặng ký, những điều thuật lại đều là sự thực. Phần ghi chép phỏng vấn tôi cũng là chính xác. Tôi lo lắng cho sự an toàn của tác giả”.

Đây chính là Thiên đàng của ĐCSTQ, bạn có muốn vào không? Chúng ta quay lại tiên tri của ông nội của Hoa.

Đại kiếp trong tương lai

Năm xưa, gia tộc của Hoa có rất nhiều trẻ em, trong nhà thường loạn ầm ĩ, người lớn đều kêu ca, nhưng ông nội không bao giờ phàn nàn. Ông thường nói với những người cha và mẹ bọn trẻ rằng: “Chớ phàn nàn, rồi sẽ có một ngày, muốn có nhiều con cháu như thế này cũng không có được, chỉ cho phép 1 con, nếu có đứa thứ 2 thì sẽ bị dùng dao mổ”.

Quả nhiên, sinh đẻ kế hoạch đến năm 2015 mới được cởi trói, nhưng vẫn chỉ hạn chế sinh 2 con.

Tiên tri quan trọng nhất của ông nội là, tương lai, nhân loại sẽ có một đại kiếp nạn dịch bệnh khá nghiêm trọng, người đi trên đường có thể ngã ra mà chết.

Ông nội còn nói với vãn bối hàng xóm rằng, cuộc đời này, việc gì anh cũng phải có phần. Ngụ ý rằng, kiếp nạn này thì anh cũng phải trải qua.

Tuy nhiên, ông nội cũng để lại phương thức huyền diệu để thoát kiếp nạn cho mọi người. Ông nói: “Nơi tin vào lời của Thánh nhân thì dịch bệnh sẽ nhẹ. Tất cả những người thiện lương tin vào Thánh nhân, thì cuối cùng sẽ được Thánh nhân cứu rỗi, bước vào một kỷ nguyên mới của lịch sử".

Đại nạn mạt kiếp mà ông nội nói, thực tế chính là những nhà tiên tri các thời đại và những cao nhân trong dân gian đều đã tiên tri rồi. Ngay cả về Thánh nhân xuất thế thì cũng có dự ngôn, thậm chí còn khá tương đồng. Có một số gia tộc lưu lại lời răn dạy của tổ tiên như sau: “Đợi đến khi có một người họ Lý truyền Đạo, toàn bộ gia tộc hãy quy y họ. Trong đại kiếp nạn bị đào thải chỉ là những người không tin và người ác”.

Hiện nay, rất nhiều người tu luyện, nhà tâm linh cũng đã cảm nhận được sự thăng duy độ của trái đất rồi, trái đất mới đang thoát ly trái đất cũ. Vì vậy hy vọng càng nhiều người có thể hiểu được tiên tri của ông nội của Hoa, kịp thời điều chỉnh tâm thái, lựa chọn chính xác, vượt qua kiếp nạn, bước vào kỷ nguyên mới.

Trung Hòa
Theo xinbuxinyouni



BÀI CHỌN LỌC

Trung Quốc giải mật hồ sơ: Ứng nghiệm tiên tri của người tu Đạo, giải mã nguyên nhân đằng sau tai họa