Từ lịch sử quan Thành Trụ Hoại Diệt xem mối quan hệ giữa văn minh và nghệ thuật (P-2)

Giúp NTDVN sửa lỗi

Mặc dù châu Âu Trung cổ bị cai trị bởi man tộc, nhưng các dân tộc này đã chấp nhận Cơ đốc giáo, vì vậy các nghệ thuật gia thời Trung cổ phần lớn là những người hiến dâng vô danh, làm việc vì sự vinh diệu của Chúa. Tuy nhiên, do nền văn minh trước đó đã bị hủy hoại, nghệ thuật thời Trung cổ về cơ bản thuộc giai đoạn mò mẫm, khám phá lại từ trong sự hoại diệt của nền văn minh trước đó, và phải đến thời kỳ Phục hưng, nghệ thuật mới tiến đến thành thục.

Xem lại: Từ lịch sử quan Thành Trụ Hoại Diệt xem mối quan hệ giữa văn minh và nghệ thuật (P-1)

Trong thời kỳ này, nó đã trải qua mỹ thuật Kitô giáo sơ khai, mỹ thuật Byzantine, mỹ thuật Romanesque và mỹ thuật Gothic. Nó dần dần chuyển từ dạng thức trang trí bề mặt sang tả thực tự nhiên, từ mô thức tượng trưng tôn giáo nghiêm trang ước thúc dần dần phát triển ra biểu hiện nhân tính hóa ôn hòa, báo hiệu đến thời điểm văn hóa nghệ thuật phục hưng. Đoạn quá trình phát triển này chính là thêm một lần hưng khởi giai đoạn “Thành” của nghệ thuật nhân loại.

"Thành" - Thời kỳ Phục hưng Văn hóa Nghệ thuật

Từ thế kỷ 14 đến thế kỷ 16, ở châu Âu đã chứng kiến ​​một bước nhảy vọt và phát triển mạnh mẽ chưa từng thấy về phương diện văn hóa và nghệ thuật, tạo ra một thời kỳ vĩ đại về hoạt động sáng tác và nhận thức, được gọi là "Thời kỳ Phục hưng Văn hóa Nghệ thuật" (gọi tắt là Thời kỳ Phục hưng). Trong vòng chưa đầy 200 năm, nghệ thuật nhân loại đã đi từ non nớt đến đỉnh cao.

Kiến trúc, điêu khắc, hội họa và các loại công nghệ thời Phục hưng đều đạt được những thành tựu đáng kể, đặc biệt là trong hội họa, kỹ pháp của nhân loại đã đạt được sự tả thực chưa từng có: sử dụng phương pháp phối cảnh đã tạo ra hiệu ứng không gian chân thực, nghiên cứu giải phẫu học đã cải thiện tính chuẩn xác của kết cấu cơ thể người, sự cải thiện của vật liệu và phương thức sơn dầu đã góp phần tạo nên tính tinh tế và chân thực của vật thể, đồng thời việc nắm vững tương phản sáng tối cũng làm cho cảm giác về thể tích và khối lượng của vật thể thêm chân thực tự nhiên...

Vì người ta đã tìm lại vẻ đẹp của nghệ thuật Hy Lạp và La Mã cổ đại từ các cổ vật, nên đề xướng học hỏi các nguyên tắc của mỹ học cổ điển để đạt được kỹ pháp thể hiện lý tính, hài hòa, chuẩn xác, chân thực. Thêm đó chủ nghĩa nhân văn đề xướng tinh thần thế tục lấy con người làm trung tâm, các nghệ thuật gia đã học được cách thể hiện chân thực từ việc quan sát tự nhiên, đồng thời lấy phương thức tả thực đó để miêu tả Chúa và các câu chuyện tôn giáo, thu hẹp khoảng cách giữa Chúa và người.

Cho nên, trong nội hàm sáng tác nghệ thuật Phục hưng, tín ngưỡng đối với Chúa và sự truy nguyên, tìm tòi đối với mỹ học cổ điển Hy Lạp, La Mã đã đảm bảo giá trị chính diện của việc theo đuổi cái thiện và cái đẹp trong sáng tác nghệ thuật. Nó xây dựng lại tinh thần cổ điển và hình thức hoàn mỹ cho văn minh nhân loại cận đại, nó cũng đặt ra mẫu mực và tiêu chuẩn đo lường nghệ thuật cho đời sau.

Người ta vẫn thường coi những thành tựu của 3 bậc thầy là Da Vinci, Michelangelo, Raphael đồng dạng với sự hưng thịnh của văn hóa nghệ thuật Phục hưng. Rất nhiều tác phẩm của họ đến nay vẫn được coi là kinh điển khó có thể vượt qua. Đồng thời, những nghệ thuật gia này dẫn dắt nghệ thuật nhân loại trưởng thành, để mọi người biết thế nào là cái đẹp, thế nào là nghệ thuật, và làm thế nào để hoàn thành tác phẩm.

Leonardo da Vinci, "Bữa tối cuối cùng", sáng tác năm 1498, 460 x 880 cm, sử dụng kỹ thuật hỗn hợp, bích họa trong phòng ăn của Tu viện Santa Maria delle Grazie ở Milan, Ý . (Phạm vi công cộng)

Michelangelo khiến khán giả sửng sốt bằng vẻ đẹp nhân thể tráng lệ mạnh mẽ. Ông tin rằng, con người là hình tượng tối cao được các Chúa ban tặng, nhưng cũng là xiềng xích của linh hồn tại thế gian, vì vậy ông sử dụng cơ thể con người làm chủ đề duy nhất để tạo ra những kiệt tác với khí thế hùng hồn. Mặc dù Michelangelo chỉ có số lượng ít tác phẩm sơn dầu, nhưng kết cấu cơ thể người mà ông vẽ rất rõ ràng và nghiêm ngặt, trạng thái thiên biến vạn hóa có thể nói là đạt đến trình độ đỉnh điểm, có ảnh hưởng sâu sắc đến tranh vẽ nhân vật của đời sau.

Những bích họa "Sáng thế ký" và "Phán xét cuối cùng" trong Nhà nguyện Sistine từ khi Chúa sáng tạo trời đất và nhân loại, nguồn gốc tội lỗi và sự sa ngã của con người, cảnh báo trong tiên tri, mãi cho đến Chúa giáng lâm và thẩm phán cuối cùng, đã triển hiện áng thơ vĩ đại của vũ trụ và lịch sử nhân loại. Trong kết cấu khí thế hào hùng, mọi người đã thấy được sự vĩ đại trang nghiêm của Chúa, thiên lý thiện ác hữu báo, cảm nhận sâu sắc sự chấn động và chỉ lối. Những thành tựu của Michelangelo càng khẳng định vị trí quan trọng không thể thay thế của hội họa nhân vật trong việc thể hiện những ý nghĩa tinh thần và đạo đức cao cả.

Bức bích họa “Sáng Thế Ký” của Michelangelo trong Nhà nguyện Sistine. (Shutterstock)
Một phần bức bích họa “Sáng Thế Ký” của Michelangelo trên trần Nhà nguyện Sistine: "Sự tạo dựng Adam". (Shutterstock)

Các sáng tác của Raphael về Đức mẹ Đồng trinh nổi tiếng vì sự ưu nhã điềm tĩnh, toát lên ánh sáng thánh thiện trong bối cảnh được vẽ. Khi lớn lên, Raphael tiếp thu trí tuệ và kinh nghiệm của những họa sĩ tiền bối: Ngoài việc kế thừa tạo hình và kết cấu của các họa sĩ trường phái Florentine, ông còn nắm vững kết cấu tinh tế của các bức tranh sơn dầu Phục hưng phương Bắc; ông học được từ Da Vinci sự sắp xếp nhịp điệu và trật tự của đám đông, ông cũng học được kết cấu cơ thể người và khí thế hùng tráng từ Michelangelo.

Có thể nói, Raphael là người hội tụ hết thảy ưu điểm trong hội họa Phục hưng. Hội họa của ông có nền tảng mỹ học cổ điển hài hòa trang trọng, lại có thể kết hợp tinh thần thời đại, sáng tác ra những bức tranh sinh động phong phú nhân tính và mang tính kể chuyện hấp dẫn.

Raphael, “Trường học Athens”. (Phạm vi công cộng)

Tất nhiên, cống hiến to lớn trong thời kỳ Phục hưng còn bao gồm các nghệ thuật gia Phục hưng phương Bắc nghiêm ngặt tỉ mỉ, cùng các họa sĩ trường phái Venice với sự biến hóa màu sắc phong phú - tất cả đều có công lớn khiến diện mạo nghệ thuật Phục hưng phong phú và hoàn chỉnh hơn.

Tác phẩm "Đám cưới Arnolfini" của họa sĩ người Hà Lan Van Eyck, người đã đặt nền móng cho chất liệu sơn dầu. (Phạm vi công cộng)

"Trụ" - Từ thời Phục hưng đến thế kỷ 19

Sau khi nghệ thuật của thời kỳ Phục hưng đạt đến đỉnh cao và trở thành kinh điển, nó gần như định hình nghệ thuật cho đời sau. Những người tài hoa xuất hiện hết đời này sang đời khác, tiêu chuẩn nghệ thuật trong 200 năm có thể nói là được duy trì ở một mức độ thành thục nhất định.

Chỉ có điều nếu lấy lý tính, hình thức hoàn mỹ, sự chuẩn xác của tinh thần cổ điển và chất lượng sáng tác nghiêm ngặt làm tiêu chuẩn thì vì thời kỳ khác nhau, khu vực khác nhau do bối cảnh văn hóa, trào lưu tư tưởng, bầu không khí xã hội khác nhau… mà xuất hiện khác biệt.

Ví dụ, sự khoa trương hoa lệ, cảm xúc mãnh liệt tôn giáo, và phong cách phóng khoáng được theo đuổi trong thời kỳ Baroque không hẳn là tinh thần cổ điển của Thần Apollo, mà chính xác hơn là niềm đam mê của Thần rượu Dionysus. Cũng do kích thước khung được mở rộng nên các nét vẽ trở nên giản lược, các tiểu tiết của bức tranh bị đơn giản hóa. Còn như phong cách Rococo thì đã là sự phản ánh lối sống hưởng thụ sa đọa của giới quý tộc thời bấy giờ.

Các quốc gia Công giáo thời kỳ Baroque nhấn mạnh việc thể hiện cảm tình tôn giáo. “Phúc âm của Thánh Matthew” bởi Caravaggio. (Phạm vi công cộng)
Những bức tranh Baroque thể hiện cuồng nhiệt và sôi động. "Vụ bắt cóc các con gái của Leucippus" của Rubens. (Phạm vi công cộng)
Phong cách hội họa Hà Lan thế kỷ 17: “Thợ thêu ren” của Vermeer”. (Phạm vi công cộng)

Chủ nghĩa Tân cổ điển xuất hiện vào cuối thế kỷ 18, là sự tái đề xướng mỹ học nghệ thuật Hy Lạp và La Mã cổ đại, dưới bầu không khí của chủ nghĩa duy lý và sự sôi động với khảo cổ Pompeii, nhiều tác phẩm lấy chủ đề Hy Lạp và La Mã cổ đại đã xuất hiện, thể hiện vẻ đẹp lý tưởng trang trọng và cân bằng.

Tranh tân cổ điển: "Lời thề của anh em nhà Horaces" (Le Serment des Horaces) của Jacques-Louis David. (Phạm vi công cộng)

Tuy nhiên, nhân vì sự hỗn loạn trên thế giới do các cuộc cách mạng lớn gây ra, thêm sự cổ súy đối với tự do và cá nhân, Chủ nghĩa Lãng mạn đã nhanh chóng thay thế: bố cục nhiễu động, màu sắc dữ dội và nét vẽ thô rộng, những vụ thảm sát bi thảm, cảnh thảm họa... - phong cách hội họa lại một lần nữa mang khuynh hướng cuồng nhiệt và hoang dã của Thần rượu Dionysus. Trên thực tế, nhìn từ chi tiết của một số tác phẩm hội họa, sự khác biệt giữa cổ điển và lãng mạn không chỉ ở phong cách bề mặt, mà trong mức độ tỉ mỉ nghiêm ngặt của các kỹ năng cơ bản cũng có sự sai lạc.

Ảnh hưởng của chủ nghĩa lãng mạn tiếp tục kéo dài đến chủ nghĩa tả thực, "chủ nghĩa tả thực" ở đây không phải là kỹ pháp, mà là sự khắc họa thực các hiện tượng xã hội và con người, sự kiện, sự vật. Chẳng hạn, họa sĩ người Pháp Courbet từng nói: “Tôi chỉ vẽ những gì mắt thấy”.

Nhưng dưới sự ảnh hưởng của các vấn đề xã hội nghiêm trọng đương thời và sự xuống dốc của đạo đức, khiến cho các họa sĩ phần nhiều lấy tâm lý bất thường và mặt tối của nhân tính làm đề tài; không còn nhấn mạnh vẻ đẹp lý tưởng nữa. Tuy là phản ánh hiện thực xã hội, nhưng nếu nghệ thuật quá nhấn mạnh những hiện tượng phụ diện, đánh mất đi sự tìm kiếm bản chất cái thiện và cái đẹp, thì nó sẽ không còn năng lực đề cao nhân tâm, và tác động của nó đối với xã hội cũng sẽ tiêu cực.

Chủ nghĩa Lãng mạn và Chủ nghĩa Tả thực cũng tạo tiền đề cho sự ra đời của Trường phái Ấn tượng sau này.

"Chiếc đu" (The Swing) của Fragonard thuộc phong cách Rococo điệu đà phù phiếm. (Phạm vi công cộng)

"Hoại" - Từ giữa thế kỷ 19 đến thời hiện đại

Vào những năm 1870, Trường phái Ấn tượng đã nhảy lên vũ đài lịch sử nghệ thuật giữa những tranh cãi, đồng thời cũng tuyên bố sự xuất hiện của Chủ nghĩa Hiện đại.

Nhiều người cho rằng Trường phái Ấn tượng đã mang lại tiến bộ về mặt khái niệm và kỹ pháp cho hội họa. Trường phái Ấn tượng tuy vay mượn các lý luận và danh từ khoa học, nhưng trên thực tế sáng tác hoàn toàn dựa trên cảm nhận chủ quan cá nhân để phân bố màu sắc, không hề thực sự “khoa học” và “lý tính”. Hơn nữa, khi các họa sĩ trường phái Ấn tượng sắp xếp các màu sắc theo kiểu nhảy vọt song song không có hòa sắc và bước chuyển, họ cũng hy sinh kết cấu, cơ lý và cảm nhận đường nét của sự vật, bước vào một trải nghiệm thị giác phập phù, mơ hồ, về cơ bản là một sự thể nghiệm phi lý tính của cá nhân theo phong cách Thần rượu.

Kể từ đó, nghệ sĩ ngày càng nhấn mạnh cảm thụ chủ quan, gắng sức theo đuổi phong cách cá nhân và cố ý phá vỡ truyền thống. Kết quả là, các khái niệm về không gian, tương phản sáng tối, cảm nhận đường nét, kết cấu cơ thể con người do các họa sĩ Phục hưng thiết lập dần dần tan rã, thậm chí bị vứt bỏ hoàn toàn. Ngoài ra, các họa sĩ cho rằng nghệ thuật phải “độc lập”, coi tính chất miêu tả hoặc giá trị đạo đức là những ràng buộc đối với nghệ thuật, dẫn đến tranh chỉ chú trọng đến hiệu ứng bề mặt mà bỏ qua nội hàm.

Thực ra, thứ mà trường phái Ấn tượng và nghệ thuật hiện đại sau này từ bỏ, chính là trí tuệ và kinh nghiệm tích lũy hàng trăm năm của tiền nhân, thứ nghệ thuật chính thống với năng lực tả thực, vẻ đẹp lý tưởng và nội hàm cao thượng mà phương Tây tự hào nhất.

Nếu như đem hai bức tranh ở cùng thời đại mà so sánh một cách công bằng, một là tác phẩm của William-Adolphe Bouguereau, bậc thầy kiên trì với trường phái cổ điển; một là tác phẩm của Pierre-Auguste Renoir thuộc trường phái ấn tượng. Hiển nhiên trên phương thức xử lý về kết cấu cơ thể người, vẻ bề ngoài, khuynh hướng cảm xúc, màu sắc của hai người có một sự khác biệt một trời một vực, đẳng cấp cũng khác nhau rất lớn. Dù cho sở thích cá nhân có thể khác nhau, nhưng lấy kỹ thuật mà nói, thì cái nào tinh chuẩn hơn, kết cấu chặt chẽ hơn, độ khó cao hơn, tiếp cận với cái đẹp hơn? Liệu cái mới có đúng là tiến bộ hơn hay không?

Bức “Cô bé cầm bình tưới nước” của họa sĩ trường phái ấn tượng Renoir (trái) được so sánh với bức “Bài học khó” của bậc thầy cổ điển Bouguereau. (Public Domain / Chu Di Tú biên tập)

"Diệt" - Sứ mệnh và lối thoát của nghệ thuật

Nghệ thuật là tấm gương phản chiếu thời đại, phản ánh chân thực giá trị quan và quan điểm thẩm mỹ của con người đương thời. Vì vậy, trong thời đại đạo đức suy đồi, đúng sai lẫn lộn, không có gì đáng ngạc nhiên khi cái xấu được ca tụng và cái tốt đẹp bị chê bai. Văn minh nhân loại phát triển đến nay, bốn phía là nguy cơ sinh tồn: thiên nhiên bị hủy hoại nghiêm trọng, đạo đức xã hội xuống cấp và những hiện tượng hỗn loạn xuất hiện thường xuyên. Dưới bối cảnh như vậy, nghệ thuật hiện đại đã đánh mất chuẩn mực rồi sẽ đi về đâu, liệu chúng ta có nên suy ngẫm chăng?

Con người ai cũng có bản tính hướng về trong sáng đẹp đẽ, nếu có thể tìm được về thiện lương, giá trị quan chính diện thì nghệ thuật vẫn có cơ hội phục hồi. Nếu các nghệ thuật gia có lý tưởng, có kỹ năng có thể nhận thức được sứ mệnh của chính mình, kiên định với lý tưởng nghệ thuật và tu dưỡng đạo đức cá nhân, quay trở lại con đường nghệ thuật chính thống, thì mới đúng là lối thoát cho nguy cơ của nhân loại.

(Đăng lại từ "艺谈Artium "https://artium.co/zh-hant/node/63)

Sử Đa Hoa - Artium
Hữu Đức biên dịch từ Epoch Times



BÀI CHỌN LỌC

Từ lịch sử quan Thành Trụ Hoại Diệt xem mối quan hệ giữa văn minh và nghệ thuật (P-2)