Từ 1/7: Xe ô tô kinh doanh vận tải sẽ phải lắp camera

Giúp NTDVN sửa lỗi

Từ ngày 1/7, ô tô kinh doanh vận tải hành khách có sức chứa từ 9 chỗ trở lên, xe container, xe đầu kéo phải lắp camera ghi và truyền dữ liệu… để giám sát lái xe và hành khách.

Tổng cục Đường bộ Việt Nam vừa có văn bản yêu cầu Sở GTVT các tỉnh thành trên cả nước đốc thúc các đơn vị vận tải lắp camera trước 1/7 theo Nghị định 10/2020 về kinh doanh và điều kiện kinh doanh vận tải quy định.

Theo đó, ô tô kinh doanh vận tải hành khách có sức chứa từ 9 chỗ (kể cả người lái xe) trở lên và xe vận tải hàng hoá bằng container, xe đầu kéo phải lắp camera ghi, lưu trữ hình ảnh trên xe trong suốt quá trình xe tham gia giao thông. Camera phải đặt tại các vị trí có thể quan sát tài xế và cửa lên xuống xe.

Đơn vị vận tải phải lưu trữ hình ảnh camera tối thiểu 24 giờ gần nhất với xe chạy cự ly đến 500 km và tối thiểu 72 giờ với xe chạy trên 500 km. Dữ liệu hình ảnh được cung cấp cho cơ quan công an, thanh tra giao thông và cơ quan cấp giấy phép nhằm kiểm soát hoạt động của lái xe, ngăn ngừa xe chở quá tải, nhồi nhét khách...

Hiệp hội Vận tải ôtô Việt Nam vào năm ngoái (2020) đã kiến nghị Bộ GTVT lùi thời gian lắp camera thêm 2 năm nữa vì các doanh nghiệp vận tải đang khó khăn, bị giảm doanh thu do dịch Covid-19. Tuy nhiên, kiến nghị này đã không được Bộ GTVT chấp thuận.

Chi phí cho việc lắp đặt khá lớn. Được biết, một bộ thiết bị giám sát hành trình có chức năng ghi nhận và truyền dữ liệu hình ảnh có giá vào khoảng 3 triệu đồng. Mỗi xe khách phải lắp 3-4 camera; chi phí truyền dữ liệu 240.000-320.000 đồng/tháng cho mỗi máy. Như vậy, mỗi xe lắp camera khoảng 10 triệu đồng thì mỗi doanh nghiệp vận tải ước tính sẽ phải chi khoảng gần 2 tỷ đồng.

Điều 12 của Nghị định 10/2020 quy định về thiết bị giám sát hành trình của xe:

1. Xe ô tô kinh doanh vận tải hành khách, xe ô tô kinh doanh vận tải hàng hóa và xe trung chuyển phải lắp thiết bị giám sát hành trình.

2. Thiết bị giám sát hành trình của xe ô tô phải tuân thủ theo quy chuẩn kỹ thuật Quốc gia và đảm bảo tình trạng kỹ thuật tốt, hoạt động liên tục trong thời gian xe tham gia giao thông.

3. Thiết bị giám sát hành trình của xe ô tô phải bảo đảm tối thiểu các yêu cầu sau đây:

a) Lưu trữ và truyền dẫn các thông tin gồm: Hành trình, tốc độ vận hành, thời gian lái xe liên tục về hệ thống dữ liệu giám sát hành trình của Bộ Giao thông vận tải (Tổng cục Đường bộ Việt Nam);

b) Thông tin từ thiết bị giám sát hành trình của xe được sử dụng trong quản lý nhà nước về hoạt động vận tải, quản lý hoạt động của đơn vị kinh doanh vận tải và được kết nối, chia sẻ với Bộ Công an (Cục Cảnh sát giao thông), Bộ Tài chính (Tổng cục Thuế) để thực hiện quản lý nhà nước về trật tự, an toàn giao thông; an ninh, trật tự; thuế.

4. Tổng cục Đường bộ Việt Nam lưu trữ dữ liệu vi phạm của các phương tiện trong thời gian 03 năm.

5. Đơn vị kinh doanh vận tải thực hiện duy trì hoạt động thiết bị giám sát hành trình để đảm bảo cung cấp được các thông tin theo quy định tại điểm a khoản 3 của Điều này.

6. Đơn vị kinh doanh vận tải và lái xe kinh doanh vận tải không được sử dụng các biện pháp kỹ thuật, trang thiết bị ngoại vi, các biện pháp khác để can thiệp vào quá trình hoạt động, phá (hoặc làm nhiễu) sóng GPS, GSM hoặc làm sai lệch dữ liệu của thiết bị giám sát hành trình của xe ô tô. Trước khi điều khiển phương tiện tham gia giao thông, lái xe phải sử dụng thẻ nhận dạng lái xe của mình để đăng nhập thông tin qua đầu đọc thẻ của thiết bị giám sát hành trình của xe và đăng xuất khi kết thúc lái xe để làm cơ sở xác định thời gian lái xe liên tục và thời gian làm việc trong ngày.

Việt Nam Xã hội

Từ 1/7: Xe ô tô kinh doanh vận tải sẽ phải lắp camera