Tà ác vô độ | IV - 1: Văn hoá tu luyện của Trung Quốc và Pháp Luân Công

Giúp NTDVN sửa lỗi

Đọc toàn chuyên đề: Tà ác vô độ - Triều đại hủ bại của Giang Trạch Dân ở Trung Quốc

Ngay từ khi mới hình thành, văn hóa Trung Quốc đã chấp nhận khái niệm “Thiên nhân hợp nhất”. Con đường để con người đạt được sự thống nhất, hay con người thật sự của mình, là tu luyện. Văn học Trung Quốc có rất nhiều truyền thuyết về việc con người đắc được Đạo, hoặc trở thành Thần thông qua tu luyện. Nhiều hình thức tu luyện đã tồn tại trong suốt lịch sử Trung Quốc. “Tu luyện” là một thuật ngữ chung để chỉ việc thực hành tâm trí và cơ thể một cách siêu việt, trong đó “tu” là muốn nói đến sự cải thiện về tinh thần và “luyện” đề cập đến sự rèn luyện về thể chất.

Pháp Luân Công là một hình thức tu luyện cổ xưa. Cụ thể, Pháp Luân Công (còn gọi là Pháp Luân Đại Pháp) là con đường tu luyện Pháp Luân vĩ đại.

Tu luyện đã để lại dấu ấn trên hầu hết mọi khía cạnh của văn hóa Trung Quốc. Ví dụ, những lời dạy của Lão Tử và Khổng Tử, được sử dụng trong nghệ thuật hướng dẫn khai sáng, ban đầu nhằm mục đích hướng dẫn sự nâng cao đạo đức của các đệ tử tương ứng của họ.

Rất nhiều nhân vật lịch sử quan trọng trong lịch sử thời kỳ đầu của Trung Quốc đã là những người tu luyện. Việc trau dồi tư cách đạo đức là điều kiện tiên quyết đối với sinh viên của bất kỳ nghiên cứu nghiêm túc nào. “Tu thân, tề gia, trị nước, bình thiên hạ” đã là châm ngôn của các học giả và bộ trưởng Trung Quốc trong nhiều thế hệ. Các giá trị đạo đức bắt nguồn từ lý thuyết và thực hành tu luyện là công cụ thiết lập đạo đức xã hội.

Tu luyện từ lâu đã gắn liền với sức khỏe thể chất và sự mãn nguyện. Ví dụ, những lợi ích sức khỏe của Thái Cực Quyền và các bài tập võ thuật đã được biết đến rộng rãi ngay cả ở bên ngoài Trung Quốc. Tất cả các thầy thuốc nổi tiếng trong lịch sử Trung Quốc đều là những người tu luyện và có khả năng siêu thường trong việc chẩn đoán và chữa bệnh. Trên thực tế, họ hoàn toàn chịu trách nhiệm đối với việc thiết lập lý thuyết và thực hành của Trung y, bao gồm hệ thống huyệt đạo trong châm cứu và y học cổ truyền Trung Hoa mà chúng ta biết ngày nay.

Các phương pháp tu luyện cũng tương tự với các tôn giáo chân chính ở Trung Quốc và các nền văn hóa khác ở nhiều khía cạnh. Cả hai loại thực hành đều tin vào sự tồn tại của các thực tại siêu cảm giác, sự cứu rỗi nhân loại và việc đạt được các cảnh giới cao hơn bằng cách thực hành các giáo lý tâm linh tương ứng của chúng. Vai trò của họ trong việc duy trì đạo đức xã hội cũng tương tự.

Tuy nhiên, tôn giáo khác với tu luyện ở chỗ nó có những hình thức không có trong tu luyện; các tôn giáo thường có một nhà thờ hoặc đền thờ vật chất, có thể có lễ phục, và các nghi lễ của tôn giáo là thiết yếu. Các nghi lễ và tất cả các trang bị và nghi thức đi kèm với một tôn giáo cụ thể hầu như không có hoặc hoàn toàn không có trong thực hành tu luyện.

Ngoài ra, tư cách thành viên trong một tôn giáo sẽ liên quan đến mối liên kết tình cảm giữa các thành viên, thường được mô tả như tình anh em hoặc tình chị em nào đó, và thông thường cần phải đóng thuế thập phân, trong khi tư cách thành viên tu luyện thì lỏng lẻo hơn nhiều, ít hữu hình hơn, chẳng hạn, chỉ yêu cầu tuân thủ theo những nguyên tắc quy định được trình bày trong một cuốn sách.

Pháp Luân Công là một môn tu luyện cả tâm lẫn thân dựa trên nguyên lý Chân, Thiện, Nhẫn. Thuật ngữ “tu luyện” có hai ý nghĩa: “tu” đề cập đến sự đề cao đến tâm tính của nội tâm, trong khi “luyện” đề cập đến các bài tập thể chất.

Năm 1992, Ông Lý Hồng Chí được các đệ tử gọi là “Sư phụ Lý”, bắt đầu giảng bài Pháp Luân Công trước công chúng. Ông giải thích rằng một môn tu luyện toàn diện bao gồm cả khía cạnh tinh thần và thể chất, đồng thời giải thích rằng mấu chốt của tu luyện là cải thiện đạo đức và trí tuệ của con người. Người tu luyện trước hết phải trở thành một người tốt với tiêu chuẩn đạo đức cao hơn người thường. Người ta nên sống lương thiện và từ bỏ những suy nghĩ ích kỷ và có hại. Trong trường hợp có xung đột, mỗi người nên tự đánh giá bản thân để tìm ra những thiếu sót của chính mình bất kể bên nào đúng sai.

Mỗi người trước tiên phải luôn nghĩ đến người khác, không bao giờ làm hại người khác vì lợi ích của mình và buông bỏ những “chấp trước” vào danh, lợi và sắc dục, đó là những chấp trước phổ biến nhất. Thông qua sự cải thiện liên tục về tâm trí và tính cách đạo đức của một người, người ta sẽ giác ngộ được những cảnh giới cao hơn và tới được các không gian và thế giới khác. Một tác dụng khác của việc tu luyện này là mang lại sức khỏe tốt, mặc dù nó không phải là mục tiêu chính của môn tập luyện này cũng như các hình thức khí công khác.

Tuân theo nguyên lý Chân, Thiện, Nhẫn, các học viên Pháp Luân Công cống hiến hết mình cho việc tu luyện nội tâm của mình và coi việc đề cao tâm tính là nền tảng. Việc tu tập này đối với bản thân, kết hợp với năm bài tập nhẹ nhàng bổ sung, giúp người tập đạt đến trạng thái tĩnh lặng và nội tâm an lạc, đồng thời làm tăng năng lượng tu luyện hay “công” của họ.

Sự thống trị của ĐCSTQ ở đại lục đã làm cho truyền thống tu luyện ở Trung Quốc bị đột ngột chấm dứt. Hệ tư tưởng vô thần và nhu cầu kiểm soát toàn diện của ĐCSTQ dẫn đến việc coi thường việc tu luyện. Các nhà lãnh đạo của ĐCSTQ cũng có thể cảm thấy bị đe dọa bởi Pháp Luân Công.

Trong hai năm đầu dưới sự thống trị của ĐCSTQ, khoảng hai triệu người đã bị hành quyết trong phong trào “trấn áp các giáo phái mê tín phản cách mạng và các hội kín”. Tu luyện bị coi là “mê tín” và bị bức hại tàn bạo. Vào cuối những năm 1970, một số trường phái tu luyện lại xuất hiện trở lại trước công chúng, nhưng để tránh gây sự chú ý của ĐCSTQ họ chỉ giới hạn trong việc dạy rèn luyện thể chất và chữa bệnh.

Sự ra đời của Pháp Luân Công, còn được gọi là Pháp Luân Đại Pháp, là lần đầu tiên kể từ khi ĐCSTQ lên nắm quyền mà một bậc thầy hoặc một vị thầy tâm linh đã công khai khuyến khích mọi người tu luyện. Nó cũng kết nối lại người Trung Quốc với cội nguồn văn hóa của chính mình.

Vào thời điểm đó, xã hội Trung Quốc đang trải qua thời kỳ suy thoái trầm trọng về các tiêu chuẩn và giá trị đạo đức. Vụ thảm sát Thiên An Môn vào tháng 06/1989 đã làm giảm tính chính danh của chính quyền. Cuộc thanh trừng chính trị sau đó càng làm ngạt thở những tiếng nói bất đồng đang kêu gọi trách nhiệm giải trình của chính quyền về vụ thảm sát này.

Để phân tán mối quan tâm về các bất bình xã hội, chính quyền đã để cho tính ích kỷ và lòng tham lan rộng, nhưng điều này chưa xảy ra trong lịch sử Trung Quốc trước đây. Với những khẩu hiệu như “làm giàu là vinh quang”, “để một số người làm giàu trước”, chế độ đã mở cửa cho quan chức các cấp chiếm đoạt tài sản công; một cơn ham muốn vật chất điên cuồng quét qua Trung Quốc. Điều này đã làm đảo lộn đạo đức dân tộc, thay thế đúng sai bằng được và mất.

Đạo đức sa sút trầm trọng đến mức người ta gọi đó là “thời đại toàn dân bại hoại” không còn chút hối hận, thậm chí còn trở thành mốt khi chế giễu những giá trị truyền thống: “Bao nhiêu cho một cân lương tâm?”, “Đạo đức có giá trị gì?”. Sự xuống cấp đạo đức này đã góp phần gây ra các vấn đề xã hội của Trung Quốc, bao gồm sự chênh lệch cực độ giữa người giàu và người nghèo, tình trạng mafia lan rộng, mại dâm, sử dụng ma túy bất hợp pháp và tỷ lệ tự tử cao.

Những lời dạy mới mẻ của Pháp Luân Đại Pháp đã thức tỉnh nhiều người khỏi sự suy thoái đạo đức mà họ nhìn thấy xung quanh mình. Sư phụ Lý nói “Mỗi người nên trở về với bản chất chân thật của mình; đây chính là mục đích thực sự của con người”, những lời lẽ này đã làm sống lại những khao khát bẩm sinh của con người về lòng tốt, sự trung thực và lẽ phải. Họ đã giác ngộ được một cuộc sống tu luyện. Họ buông bỏ những mối hận thù trước đây. Họ từ bỏ ham muốn lợi ích vật chất khi điều đó làm tổn thương người khác. Họ ngừng lo lắng về việc luôn bị lợi dụng. Họ đã quay lưng lại với tâm lý mưu mô đang lan tràn giữa những người trong Trung quốc cộng sản.

Các quan chức, những người tập luyện Pháp Luân Công, từ chối hối lộ và chống lại mọi hình thức tham nhũng. Các doanh nhân tránh xa những hành vi gian lận và không trung thực. Những tên xã hội đen, những người nghiện ma túy, gái mại dâm và cả những tên trộm, những người đã theo Đại Pháp, có nghĩa là “Con Đường Vĩ đại”, đã lật sang một trang mới và sống những cuộc đời mới.

Trong khi Pháp Luân Công nhấn mạnh đến sự tu luyện cá nhân, các tiêu chuẩn đạo đức cao mà các học viên Pháp Luân Công tuân theo đã có tác động tích cực đến xã hội và thực tế này đã được nhiều người công nhận, bao gồm cả các cấp chính quyền Trung Quốc. Ví dụ, đó là một quy trình tiêu chuẩn để sàng lọc và cân lại ngũ cốc mà nông dân nộp cho các trạm thu mua công cộng.

Tuy nhiên, tại huyện Jianli của tỉnh Hồ Bắc, thủ tục này đã được miễn đối với việc nộp ngũ cốc bởi các học viên Pháp Luân Công. Nhiều công ty thậm chí còn ưu tiên tuyển dụng các học viên Pháp Luân Công, vì Pháp Luân Công đã trở thành đồng nghĩa với sự trung thực và tốt bụng.

Ngoài ra, trong số các hệ thống bài tập thể dục của Trung Quốc, Pháp Luân Công là phát triển nhanh nhất và thu hút sự chú ý của các chuyên gia y tế và chính phủ. Năm 1998, một cuộc khảo sát y tế sơ bộ đã được tiến hành trong các học viên Pháp Luân Công ở Bắc Kinh (hai lần), Vũ Hán, Đại Liên và tỉnh Quảng Đông. Năm cuộc khảo sát đã thu thập dữ liệu từ gần 35.000 học viên Pháp Luân Công. Dữ liệu này cho đến nay là cuộc điều tra toàn diện nhất về tác dụng của Pháp Luân Công đối với việc chữa bệnh và rèn luyện sức khỏe.

Dữ liệu này cho thấy các học viên Pháp Luân Công được khảo sát đến từ mọi tầng lớp xã hội: 72,9% là phụ nữ; 62,1% trên 50 tuổi; hơn 90% mắc ít nhất một bệnh trước khi tập luyện. Hầu hết các học viên bắt đầu học Pháp Luân Công với mục đích chữa bệnh và rèn luyện sức khỏe. Các cuộc khảo sát kết luận rằng hơn 98% cho biết họ được hưởng lợi về sức khỏe và thể lực. Nhiều người tham gia khảo sát đánh giá cao Pháp Luân Công vì đã cho họ cơ hội sống thứ hai hoặc đã cứu sống các thành viên trong gia đình họ.[1]

Ngay cả chính phủ Trung Quốc cũng thừa nhận những lợi ích sức khỏe của Pháp Luân Công. Theo một bài báo của US News & World Report xuất bản vào tháng 2/1999, “Pháp Luân Công và các môn khí công khác có thể tiết kiệm 1.000 nhân dân tệ chi phí y tế hàng năm cho mỗi người.

Nếu 100 triệu người tập môn này thì đó là 100 tỷ nhân dân tệ [US. 14,9 tỷ USD] được tiết kiệm mỗi năm từ phí y tế”, một quan chức tham gia vào quá trình xem xét Pháp Luân Công trên toàn quốc cho biết. Trích dẫn một bản ghi nhớ nội bộ, ông nói thêm: ‘Thủ tướng Chu Dung Cơ rất vui vì điều đó. Đất nước có thể sử dụng tiền ngay bây giờ.'”[2]

Đến năm 1999, Pháp Luân Công đã trở thành một hiện tượng toàn cầu với hơn 100 triệu học viên trên hơn 50 quốc gia.

Bình An - Bạch Liên biên dịch

TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1] He, Mai. (2003, April 26) Falun Gong and Health. Minghui.org. http://www.minghui.org/mh/articles/2003/4/26/48953.html

[2] Fang, Bay. (1999, February 22) An Opiate of the Masses? U.S. News & World Report.



BÀI CÙNG CHUYÊN ĐỀ

BÀI CHỌN LỌC

Tà ác vô độ | IV - 1: Văn hoá tu luyện của Trung Quốc và Pháp Luân Công