Bức tranh Trung Quốc đắt giá nhất: "Cát Trĩ Xuyên di cư đồ" của Vương Mông thời nhà Nguyên

Giúp NTDVN sửa lỗi

Trong lĩnh vực hội họa, tranh của Vương Mông thời nhà Nguyên và Tề Bạch Thạch thời nhà Thanh là những bức tranh cổ có giá trị đấu giá cao nhất trong lịch sử hiện đại. Bức tranh "Cát Trĩ Xuyên di cư đồ" (Cát Trĩ Xuyên là danh sĩ Cát Hồng thời Đông Tấn) do danh họa Vương Mông sáng tác vào thế kỷ XIV thể hiện Tiên cảnh thế ngoại đào nguyên, nơi ẩn cư  rời xa khói bụi của thế gian của Cát Hồng.

Bức tranh "Cát Trĩ Xuyên di cư đồ"

Họa sĩ Vương Mông (tự là Thúc Minh, 1308-1385, người Hồ Châu, hiệu Hoàng Hạc Sơn Tiều, Hương Quang cư sĩ) là một trong "Nguyên tứ đại gia" (bốn họa sĩ lớn thời nhà Nguyên). Ông xuất thân từ gia đình có truyền thống học vấn cao, là cháu ngoại của danh họa, thư pháp gia Triệu Mạnh Phủ. Vương Mông là một nghệ sĩ đa tài. Ông có tài năng sáng tác trong cả ba lĩnh vực thư pháp, thơ ca và hội họa.

Nghê Toán, một trong "Nguyên tứ đại gia" từng khen ngợi sự chắc khỏe trong nét bút của Vương Mông: "Nét bút của Vương hầu có thể nâng đỉnh, năm trăm năm nay không có người như vậy".

Vương Mông sáng tác thơ văn cũng không gò bó theo quy tắc thông thường. Du Hữu Nhân, người đứng đầu kỳ thi Hội vào thời nhà Minh, khi đọc thơ của ông đã tán thưởng rằng: "Đây là câu thơ hay của người Đường (tức người Trung Quốc)", vì vậy đã mến mộ gả em gái cho Vương Mông.

Trong lịch sử nghệ thuật, Vương Mông nổi tiếng với tranh sơn thủy. Ông cũng giỏi rất vẽ tranh nhân vật. Bức tranh "Cát Trĩ Xuyên di cư đồ" thể hiện câu chuyện danh sĩ nổi tiếng thời Đông Tấn Cát Hồng (tự là Trĩ Xuyên, người Câu Dung, Đan Dương) dẫn cả gia đình di cư đến núi La Phù để ẩn cư tu luyện. Vậy bức tranh này có những cảnh đẹp nào?

Bức tranh "Cát Trĩ Xuyên di cư đồ" của Vương Mông có hai bức. Trong đó, bức tranh được giới thiệu trong bài này được lưu giữ tại Bảo tàng Cố cung Bắc Kinh. Bức còn lại của tư nhân được bán đấu giá vào năm 2011, lập kỷ lục bức tranh cổ Trung Quốc đắt giá nhất.

Câu chuyện về danh sĩ Cát Hồng trong tranh

"Cát Trĩ Xuyên di cư đồ" miêu tả cảnh danh sĩ Cát Hồng thời Đông Tấn mang theo vợ con và cháu ngoại di cư đến núi La Phù để tu Đạo. Tính tình của Cát Hồng nhẹ nhàng, thanh đạm ít ham muốn, không có hứng thú với việc ăn uống chơi bời, suốt đời hiếu học. Khi còn nhỏ, gia đình của Cát Hồng rất nghèo. Ban ngày ông phải dùng củi để đổi lấy giấy bút, đến tối lại cố gắng học tập, đọc rất nhiều kinh sách, nổi tiếng về Nho học. Chính quyền địa phương và triều đình nhiều lần mời Cát Hồng ra làm quan nhưng ông đều từ chối. Cát Hồng không ham muốn vinh hoa phú quý, chỉ yêu thích những câu chuyện tu Đạo thành Tiên.

Cát Hồng muốn tu luyện đan đạo để được trường sinh, nghe nói ở vùng Giao Chỉ có nhiều quặng tốt để luyện đan, nên đã xin đến nhậm chức huyện lệnh Câu Lậu. Hoàng đế cho rằng Cát Hồng tài cao nên không đồng ý cho ông làm một chức quan huyện lệnh nhỏ bé. Thế nên Cát Hồng đã bày tỏ nguyện vọng rằng: "Thần ra làm quan không phải vì vinh hoa phú quý, mà bởi vì vùng đất Giao Chỉ có thể luyện ra đan dược nên mới muốn đến đây". Thế nên hoàng đế đã đồng ý với yêu cầu của ông.

Thế rồi Cát Hồng cùng vợ, con và cháu ngoại cùng nhau đến vùng đất Giao Chỉ. Khi đi qua Quảng Châu, quan thứ sử Đặng Nhạc yêu mến nên giữ cả gia đình Cát Hồng lại, không cho đi đến Giao Chỉ. Sau đó, Cát Hồng đến núi La Phù gần đó để tu luyện. Cát Hồng sống nhiều năm ở trong núi, ung dung nhàn hạ, sáng tác không ngừng.

Cảnh trời đất trong tranh

Núi La Phù được khen ngợi là "Lĩnh Nam đệ nhất sơn" với non xanh nước biếc, phong cảnh dễ chịu. Vùng núi này có thể sản xuất ra chu sa. Trong núi hiện nay vẫn còn di tích luyện đan của Cát Hồng, được Đạo giáo gọi là Động Thiên (động Tiên) thứ bảy.

Bức tranh này rất đẹp mắt, tràn ngập cảnh sắc thiên nhiên mùa thu dễ chịu. Bố cục của bức tranh tạo cảm giác chân thực, giống như người xem tự mình đến đây. Núi non trung điệp với những câu cổ thụ uốn lượn, con thác nhỏ đổ xuống thành dòng suối chảy tràn qua khe. Cảnh sắc thiên nhiên hùng vĩ hiện ra trước mắt. Trong cảnh trời đất tĩnh mịch thấp thoáng vài mái nhà tranh và sinh hoạt của con người, thể hiện ý cảnh “Thiên nhân hợp nhất”.

Tác phẩm nổi tiếng của một trong "Nguyên tứ đại gia" Vương Mông: "Cát Trĩ Xuyên di cư đồ", kích thước 139,5 x 58 cm, chất liệu: vẽ màu trên giấy. (Ảnh thuộc miền công cộng)

Tiền cảnh trong tranh là cây cầu gỗ bắt qua khe suối, nơi diễn ra câu chuyện đi ẩn cư của Cát Hồng. Hình tượng nhân vật tươi sáng. Nhân vật Cát Hồng trong tranh thể hiện thần thái thanh tao nho nhã, mặc một bộ trang phục Đạo sĩ, tay phải dắt con hươu (đang chở sách vở của ông), tay trái cầm chiếc quạt lông, quay đầu nhìn lại người nhà theo sau. Có một người nam đi phía sau Cát Hồng, tiếp theo là một con trâu đang chở người phụ nữ ôm đứa trẻ do người hầu dắt. Phía sau con trâu còn có hai người hầu nữ. Ở phía trước có một vài người hầu đang đi men theo đường núi. Con đường nhỏ được núi non trùng điệp bao quanh, lúc ẩn lúc hiện. Đến tận chỗ sâu trong khe núi, có một nơi trống trải giữa vách đá cheo leo ẩn hiện vài gian nhà tranh tĩnh mịch tách xa khỏi chốn thế tục ồn ào đông đúc. Đó chính là nơi cả gia đình Cát Hồng sẽ ẩn cư.

Chủ đề của bức tranh

Chủ đề ẩn cư tu Tiên trong bức tranh "Cát Trĩ Xuyên di cư đồ" được nhiều văn nhân nghệ sĩ truyền thống của Trung Quốc yêu thích. Không chỉ Vương Mông mà còn có rất nhiều họa sĩ khác cũng vẽ tranh về chủ đề này. Tuy nhiên, bức tranh của Vương Mông là tác phẩm nổi tiếng nhất. Các văn nhân truyền thống mượn hình ảnh lánh đời ẩn cư, rời xa thế tục, tu luyện thành Tiên trong bức tranh "Cát Trĩ Xuyên di cư đồ" để thể hiện mong muốn trở về với thiên nhiên, hòa mình cùng núi rừng.

Hình ảnh con hươu trong bức tranh thể hiện mong muốn được ẩn cư, đồng thời làm nổi bật tư tưởng của chủ đề. Trong Đạo giáo, hươu là vật cưỡi của các vị Tiên nhân hoặc ẩn sĩ, do đó hươu còn được gọi là "Tiên thú". Đạo gia cho rằng hươu là loài động vật sống thọ, có thể sống đến nghìn năm. Trong cuốn "Bão phác tử", Cát Hồng viết: "Hổ, hươu, thỏ đều sống thọ nghìn năm, sống đến năm trăm tuổi thì lông chuyển sang màu trắng".

Thi tiên Lý Bạch suốt đời tìm Tiên tầm Đạo đã viết một câu thơ trong bài thơ "Mộng du Thiên Mụ ngâm lưu biệt" về việc cưỡi hươu trắng đi thăm núi: "Thả phóng bạch lộc thanh nhai gian, Tu hành tức kỵ phỏng danh sơn" (Tạm dịch: Hãy thả con hươu trắng nơi ghềnh núi xanh, Hễ cần thì cưỡi đến thăm núi nổi tiếng).

Hình ảnh con hươu hòa hợp với tinh thần của các ẩn sĩ, trở thành hình ảnh gửi gắm mong muốn sống ẩn dật của người xưa.

Bức tranh này thể hiện thế giới tinh thần muốn ẩn cư lánh đời của chính tác giả Vương Mông. "Minh sử" chép rằng Vương Mông từng làm một chức quan nhỏ vào thời nhà Nguyên. Đến cuối nhà Nguyên thời thế loạn lạc, ông đã từ quan về ẩn cư tại núi Hoàng Hạc (nay thuộc huyện Dư Hàng, tỉnh Chiết Giang), tự xưng là "Hoàng Hạc Sơn Tiều".

Bức tranh "Cát Trĩ Xuyên di cư đồ" do Vương Mông vẽ được bán đấu giá tại Bắc Kinh vào năm 2011 có bố cục rất giống với bức tranh này, nhưng hướng di chuyển của các nhân vật ngược nhau, cách dùng bút, sắc thái và ý tứ cũng khác nhau. Bức tranh kia sử dụng bút pháp chấm phá dày đặc, nét bút đậm đà và ẩm ướt, thể hiện phong cách xanh tươi.

Ý cảnh và kỹ năng hội họa

Ông ngoại của Vương Mông chính là nhà thơ, họa sĩ, thư pháp gia Triệu Mạnh Phủ nổi tiếng trong lịch sử. Trong gia tộc của Vương Mông có rất nhiều nghệ thuật gia, đồng thời gia tộc của ông cũng nổi tiếng có học vấn cao. Vương Mông vừa là họa sĩ vừa là nhà thơ. Trong lĩnh vực hội họa, ông có sở trường về vẽ tranh sơn thủy, xa thì học theo họa sĩ Vương Duy thời nhà Đường, gần thì được khai sáng từ những họa sĩ thời Ngũ Đại như Đổng Nguyên, Cự Nhiên.

Tranh sơn thủy của Vương Mông có bố cục độc đáo, thể hiện khung cảnh hùng vĩ với những ngọn núi cao trùng điệp, sừng sững và rừng cây rậm rạp gần trước mắt, giống như lấp đầy cả bức tranh. Thế nhưng những dải núi ở xa xa lại mở ra không gian vô hạn bên ngoài bức tranh. Một dòng suối trong ở gần tạo nên khoảng trống, hư thực đan xen. Vương Mông giỏi sử dụng bút pháp "thuân" vẽ núi và đá của các bậc tiền nhân, đồng thời thêm phần sáng tạo của mình để thể hiện những ngọn núi cao sừng sững, rậm rạp, những vách đá dựng đứng hùng vĩ. Phong cách vẽ tranh của ông có ảnh hưởng lớn đến tranh sơn thủy thời nhà Minh và nhà Thanh.

Núi trong bức tranh này lấy mực nhạt để làm phần xương sống, sau đó thêm mực màu đen, cuối cùng vẽ bên ngoài bằng bút pháp "thuân" và trau chuốt. Ở đây, người họa sĩ đã sử dụng kỹ thuật sở trường phi ma thuân, giải sách thuân, cự phủ thuân kết hợp dùng mực nhạt vẽ ra phần khung đá đã thể hiện ra chỗ thần diệu. Với kỹ pháp "thuân" bằng mực nhạt và ngòi bút khô, những ngọn núi cao ngất, những vách đá cứng chắc trong tranh vô cùng chân thật, các tầng lớp biến hóa đa dạng. Chỉ một vài nét vẽ ở bên sườn núi đã có thể vẽ ra những cây xanh, cành đỏ khỏe khoắn mạnh mẽ, thêm màu xanh đỏ và vàng đỏ sẫm, điểm nên hơi thở ngập tràn sắc vàng của mùa thu. Nhân vật trong tranh tuy nhỏ nhưng có đầy đủ phong thái của nhân vật chính. Các nhân vật khác cũng có những nét đặc sắc riêng biệt. Ý cảnh ung dung ẩn dật cùng với hơi thở mùa thu dường như hòa thành một thể.

Sự sùng bái của người đời sau

Sau thời nhà Nguyên, các họa sĩ thời nhà Minh và nhà Thanh đều đánh giá cao Vương Mông. Vương Thế Trinh thời nhà Minh viết trong "Nghệ uyển chi ngôn" rằng: "Thúc Minh (Vương Mông) theo học Vương Duy, đạt đến chỗ sâu sắc".

Trong "Nam điền họa bạt", Uẩn Thọ Bình (Uẩn Cách) thời nhà Thanh viết: "Hoàng Hạc Sơn Tiều (Vương Mông) thông qua quan sát và học hỏi, tài năng có thể tự lập thành trường phái riêng, sánh ngang với Hoàng và Nghê (ngang tài với Hoàng Công Vọng và Nghê Toán), có phần lấn át cả Bắc Uyển (Đổng Nguyên), thật thâm hậu vậy".

Uẩn Thọ Bình còn nói: “Hoàng Hạc Sơn Tiều có được kỹ pháp vẽ đậm đặc, cẩn mật của Đổng Nguyên, thuân pháp lối thảo thư của Trương Điên, đạt đến vững chắc, nhưng vẫn trở lại lúc ẩn lúc hiện". Lời nhận xét tranh của Vương Mông "đạt đến vững chắc, nhưng vẫn trở lại lúc ẩn lúc hiện" của Uẩn Thọ Bình cho thấy nghệ thuật tạo cảnh của Vương Mông đã đạt đến chỗ tuyệt diệu, dùng ngòi bút trầm ổn vững vàng để thể hiện ý cảnh tự nhiên, phóng khoáng, quả thật rất đáng quý. Người đời sau gọi Vương Mông cùng với Hoàng Công Vọng, Ngô Trấn và Nghê Toán là "Nguyên tứ gia".

Vương Mông để lại cho đời sau hơn 10 bức tranh, trong đó tiêu biểu như “Thanh Biện ẩn cư đồ,” “Xuân Sơn độc thư đồ” được lưu giữ ở Viện bảo tàng Thượng Hải, “Cát Trĩ Xuyên di cư đồ” được lưu giữ tại Bảo tàng Cố cung Bắc Kinh, “Thu Sơn thảo đường đồ” được lưu giữ tại Bảo tàng Cố cung Đài Bắc.

Chú thích:

[1]: “Phi ma thuân” hay còn được gọi là “ma bì thuân” là kỹ thuật sử dụng tổ hợp các đường vững chắc nhưng mềm mại, linh hoạt để thể hiện cấu trúc và các đường vân của đá núi. Nét vẽ của kỹ thuật vẽ này giống như cây gai rối tung và rơi xuống. Kỹ thuật này có thể thể hiện những đường vân tinh tế, nhẹ nhàng ở các ngọn núi Giang Nam rất tốt. Đổng Nguyên chủ yếu sử dụng đường phi ma thuân ngắn, trong khi đó Cự Nhiên thích sử dụng những đường phi ma thuân dài. Một trong những đặc điểm nổi bật của trường phái vẽ tranh sơn thủy do Đổng Nguyên và Cự Nghiên sáng lập là sử dụng đường phi ma thuân. Đặc điểm của “giải sách thuân” là những đường nét của kỹ thuật thuân tương đối dài nhưng khúc chiết, trắc trở, có thể hình dung như một sợi dây thừng được tháo ra nên được gọi là “giải sách thuân". Phần trên của dây thừng quấn bện rối rắm nhưng ở phía dưới được mở ra để thể hiện những đường văn núi phức tạp.

Tài liệu tham khảo: "Tấn thư" của Phòng Huyền Linh, Minh sử, Nghệ uyển chi ngôn, Nam điền họa bạt

Đạp Tuyết Phi Hồng - Epoch Times
Đức Nhân biên dịch



BÀI CHỌN LỌC

Bức tranh Trung Quốc đắt giá nhất: "Cát Trĩ Xuyên di cư đồ" của Vương Mông thời nhà Nguyên