Tỷ lệ tử vong do suy tim tăng vọt lên mức cao nhất trong 20 năm

Giúp NTDVN sửa lỗi

Số người chết vì suy tim đạt mức cao chưa từng thấy, hoàn toàn đảo ngược xu hướng giảm lâu dài về tỷ lệ tử vong do tim mạch được ghi nhận chỉ hai thập kỷ trước.

Một nghiên cứu theo nhóm được công bố vào ngày 24 tháng 4 trên JAMA Cardiology sử dụng dữ liệu giấy chứng tử ở Hoa Kỳ cho thấy, từ năm 1999 đến năm 2012, số ca tử vong liên quan đến suy tim có xu hướng giảm, sau đó ổn định rồi tăng đều đặn từ năm 2012 đến năm 2021, đặc biệt, sự gia tăng nhanh chóng được quan sát thấy từ năm 2020 đến năm 2021.

Bác sĩ Marat Fudim, bác sĩ tim mạch điều trị suy tim tại Trung tâm Y tế Đại học Duke, tác giả chính của nghiên cứu, cho biết trên The Epoch Times: "Nghiên cứu cho thấy hiện nay có nhiều bệnh nhân tử vong vì suy tim hơn 20 năm trước. Điều đáng lo ngại là trong suốt một thập kỷ, chúng tôi đã đạt được những bước tiến tốt trong việc cải thiện xu hướng đó, nhưng trong thập kỷ qua, xu hướng này đã thay đổi".

Mặc dù các nhà nghiên cứu nhận thấy sự chênh lệch thông thường giữa nam / nữ và giữa một số nhóm chủng tộc / dân tộc, nhưng sự gia tăng lớn nhất về số người tử vong liên quan đến suy tim xảy ra ở những người dưới 45 tuổi.

Theo nghiên cứu, trong khoảng thời gian từ năm 1999 đến năm 2021, tỷ lệ tử vong đã:

  • Tăng 906% ở những người dưới 45 tuổi;
  • Tăng 385% ở những người từ 45 – 64 tuổi;
  • Tăng 84% ở những người từ 65 tuổi trở lên và 103% tổng thể.

Phân tích cho thấy kết quả tương tự khi xem suy tim là nguyên nhân gây tử vong.

Theo Tạp chí Suy tim, khoảng 6,7 triệu người Mỹ trên 20 tuổi mắc suy tim và tỷ lệ này dự kiến sẽ tăng lên 8,5 triệu vào năm 2030.

Suy tim, còn được gọi là suy tim sung huyết, là một tình trạng y tế nghiêm trọng xảy ra khi tim không thể bơm đủ máu để đáp ứng nhu cầu của cơ thể. Điều này có thể xảy ra do tim không thể bơm đủ máu hoặc quá yếu để bơm máu đúng cách. Tình trạng này có thể đến đột ngột hoặc phát triển theo thời gian và có thể ảnh hưởng đến bên trái hoặc bên phải của tim.

Theo Viện Tim, Phổi và Máu Quốc gia Hoa Kỳ, suy tim thường do một tình trạng y tế gây tổn thương tim, chẳng hạn như bệnh tim, viêm, huyết áp cao, bệnh cơ tim hoặc nhịp tim không đều. Người bị suy tim có thể cảm thấy mệt mỏi, khó thở hoặc nhận thấy dịch tích tụ ở phần dưới cơ thể xung quanh dạ dày hoặc cổ - mặc dù các triệu chứng này có thể khó nhận thấy ngay từ đầu.

Suy tim cũng có thể dẫn đến các tình trạng khác như tăng huyết áp phổi, nhịp tim không đều, bệnh van tim và ngừng tim đột ngột.

Các tác giả của nghiên cứu lưu ý rằng sự đảo ngược tỷ lệ tử vong liên quan đến suy tim bắt đầu từ rất lâu trước đại dịch COVID-19, nhưng mức tăng tử vong lớn nhất được quan sát thấy vào năm 2020 và 2021, cho thấy đại dịch và việc tiếp cận hạn chế với dịch vụ chăm sóc sức khỏe có thể đã đẩy nhanh xu hướng.

Các yếu tố tiềm ẩn

Không có yếu tố đơn lẻ nào có thể giải thích toàn bộ xu hướng, vì có thể sự dịch chuyển tỷ lệ mắc suy tim sang nhóm tuổi trẻ hơn và sự đảo ngược tổng thể về tỷ lệ tử vong có thể là sự kết hợp của nhiều yếu tố, Tiến sĩ Fudim nói với The Epoch Times.

Tiến sĩ Fudim đưa ra một số lý do có thể giải thích sự gia tăng tỷ lệ tử vong do suy tim:

  • Thứ nhất, tỷ lệ bệnh nhân suy tim đang gia tăng, sau đó dẫn đến nhiều ca tử vong hơn ở bệnh nhân mắc suy tim. Tuy nhiên, xu hướng suy tim đã dần tăng lên trong nhiều thập kỷ, vì vậy chỉ riêng điều này là không đủ để giải thích "xu hướng hình chữ U mà chúng tôi trình bày", ông nói;
  • Thứ hai, Hoa Kỳ không tập trung vào việc phòng ngừa bệnh tim mạch;
  • Thứ ba, các bệnh đi kèm như tiểu đường, béo phì, huyết áp cao, bệnh gan và bệnh thận đã gia tăng trong vài thập kỷ và hiện đang chuyển thành các biến cố liên quan đến suy tim tồi tệ hơn. “Điều này đặc biệt ảnh hưởng đến các thế hệ trẻ tuổi. Điều này sẽ khiến bệnh nhân suy tim ‘trung bình’ trở nên ốm yếu hơn, có thể nói như vậy”, Tiến sĩ Fudim nói;
  • Thứ tư, cơ hội tiếp cận dịch vụ chăm sóc sức khỏe, dịch vụ y tế và điều trị cần thiết trở nên khó khăn hơn, đặc biệt là “khoảng cách giữa thành thị / nông thôn”, trong đó, tỷ lệ tử vong ở nông thôn cao hơn đáng kể.
  • “Cuối cùng nhưng không kém phần quan trọng, xu hướng này đã xuất hiện trước đại dịch COVID nhiều năm nhưng không được cải thiện - và tác động của nó lên chăm sóc sức khỏe, các dịch vụ phòng ngừa, làm trầm trọng thêm khoảng cách kinh tế xã hội...”, Tiến sĩ Fudim nói thêm.

Bác sĩ Andrew Foy, bác sĩ tim mạch tại Penn State, cho The Epoch Times biết qua email rằng ông không thể đưa ra bất kỳ kết luận nào về xu hướng mắc suy tim chuyển sang các nhóm tuổi trẻ hơn vì dữ liệu chỉ liên quan đến tỷ lệ tử vong được điều chỉnh theo tuổi.

“Chúng tôi phải nghiêm túc xem xét tác động (hoặc thiếu tác động) của các liệu pháp và can thiệp mới đối với việc kiểm soát bệnh suy tim”, Tiến sĩ Foy nói.

Một hạn chế quan trọng được lưu ý trong nghiên cứu của JAMA Cardiology, là việc các nhà nghiên cứu phụ thuộc vào dữ liệu được trích xuất từ giấy chứng tử của Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh Hoa Kỳ (CDC), vốn có thể quy nhầm một số trường hợp tử vong là do các nguyên nhân khác. Ngoài ra, mọi người đang sống sót lâu hơn với các tình trạng khiến họ bị suy tim, điều này có thể làm tăng tỷ lệ mắc bệnh và nói rộng ra là tỷ lệ tử vong.

Vaccine COVID-19

Mặc dù nghiên cứu đã phân tích các trường hợp tử vong liên quan đến suy tim trước khi triển khai vaccine COVID-19 vào tháng 12 năm 2020, dữ liệu cho thấy vaccine COVID-19 có thể làm trầm trọng thêm xu hướng này.

“Mặc dù đại dịch chắc chắn đã gây căng thẳng cho các nguồn lực chăm sóc sức khỏe, chúng ta phải xem xét tất cả các yếu tố, bao gồm cả khả năng tổn thương tim trực tiếp do COVID-19 và có thể do các can thiệp như vaccine, vốn liên quan đến viêm cơ tim và viêm màng ngoài tim. Những tình trạng này gây viêm tim và có thể dẫn đến suy tim”, bác sĩ và nhà khoa học nghiên cứu Tiến sĩ Houman David Hemmati cho biết trong một bài đăng trên [PLACEHOLDER X].

Theo các cơ quan y tế Hoa Kỳ, cả hai vaccine mRNA COVID-19 của Pfizer và Moderna đều có thể làm tăng nguy cơ viêm cơ tim và viêm màng ngoài tim, đặc biệt ở nam giới từ 18 – 39 tuổi. Dữ liệu sau khi đưa ra thị trường về vaccine COVID-19 cho thấy nguy cơ viêm tim tăng cao, đặc biệt là trong tuần đầu tiên sau khi tiêm chủng.

Viêm cơ tim là tình trạng có thể dẫn đến rối loạn nhịp tim, suy tim và tử vong. Nó cũng có thể khiến cơ tim yếu đi hoặc ảnh hưởng đến hệ thống điện của tim, có thể dẫn đến bệnh cơ tim và nhịp tim không đều - hai tình trạng nền tảng góp phần vào suy tim. Nghiên cứu cho thấy viêm màng ngoài tim cũng có thể gây suy tim.

Trong một nghiên cứu hồi cứu năm 2023 được công bố trên Tạp chí Suy tim, bốn bệnh nhân từ 22 – 43 tuổi đã phát triển tình trạng suy tim trong vòng ba tuần sau khi tiêm liều vaccine COVID-19 thứ hai của Pfizer. Không ai trong số các bệnh nhân có tiền sử tim mạch trước đó hoặc các tình trạng dễ mắc bệnh.

Trong một bài tổng quan hệ thống được công bố gần đây trên ESC Heart Failure, các nhà nghiên cứu đã điều tra mối liên hệ nhân quả tiềm ẩn giữa vaccine COVID-19 và tử vong do viêm cơ tim bằng cách sử dụng phân tích tử thi.

Họ xác định được 28 trường hợp tử vong có khả năng cao nhất liên quan đến vaccine COVID-19. Trong 26 trường hợp, hệ thống tim mạch là hệ thống cơ quan duy nhất bị ảnh hưởng và độ tuổi tử vong trung bình là 44,4 tuổi. Trong một số trường hợp, kết quả khám nghiệm tử thi cho thấy rối loạn nhịp tim nghiêm trọng, suy tim tiến triển hoặc bệnh cơ tim.

Theo dữ liệu từ Hệ thống Báo cáo Biến cố Ngược sau Tiêm Chủng (VAERS) của CDC, 37.382 trường hợp tử vong sau khi tiêm vaccine COVID-19 đã được báo cáo trong khoảng thời gian từ ngày 14 tháng 12 năm 2020 đến ngày 29 tháng 3 năm 2029.

Trong số các trường hợp tử vong đó, dữ liệu cho thấy ít nhất 15% liên quan đến các rối loạn tim mạch. Ngoài ra, 5.900 trường hợp suy tim và 26.944 trường hợp viêm cơ tim và viêm màng ngoài tim đã được báo cáo sau khi tiêm vaccine COVID-19.

Do các báo cáo VAERS không được công khai, nên rất khó để nắm được có bao nhiêu tình trạng tim mạch dẫn đến suy tim được báo cáo.

VAERS là một hệ thống báo cáo tự nguyện, do Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ (FDA) và CDC cùng quản lý, được thiết kế để phát hiện các tín hiệu an toàn của vaccine, nhưng ước tính chỉ chiếm dưới 1% các sự kiện bất lợi thực tế.

Mặc dù VAERS không được thiết kế để xác định xem vaccine có gây ra vấn đề sức khỏe nhất định nào đó hay không, nhưng hệ thống này hữu ích trong việc phát hiện "các mẫu bất thường hoặc không mong đợi" sau khi tiêm chủng, có thể cho thấy một vấn đề an toàn tiềm ẩn.

Theo Megan Redshaw - The Epoch Times
Bảo Vy

Megan Redshaw là một luật sư và nhà báo điều tra có nền tảng về khoa học chính trị. Cô cũng là một nhà trị liệu thiên nhiên truyền thống với các chứng chỉ bổ sung về khoa học dinh dưỡng và tập thể dục.



BÀI CHỌN LỌC

Tỷ lệ tử vong do suy tim tăng vọt lên mức cao nhất trong 20 năm