Điều gì xảy ra khi con bạn tiêm quá nhiều loại vaccine?

Giúp NTDVN sửa lỗi

Nhiều bậc cha mẹ, các bác sĩ, nhà nghiên cứu đã công khai chỉ ra rằng tuy mỗi loại vaccine đều đã trải qua thử nghiệm an toàn, nhưng những loại vaccine tiêm cho trẻ em đều không được đánh giá khả năng kết hợp với các loại vaccine khác trong quá trình phê duyệt. Hiện tại, có tới 14 loại vaccine nằm trong lịch tiêm vaccine khuyến cáo.

Các nhà khoa học đã phát hiện có sự liên quan giữa việc gia tăng tỷ lệ đái tháo đường type 1 tuổi vị thành niên và tình trạng tiêm phòng vaccine quá mức.

Đối với nhiều bậc cha mẹ, việc kiểm tra sức khỏe của trẻ, đặc biệt là với con đầu lòng, là việc vô cùng quan trọng.

Đa phần những buổi khám bệnh là cơ hội để cha mẹ trao đổi với bác sĩ về quá trình phát triển của trẻ. Cha mẹ trẻ thường đặt ra nhiều câu hỏi hóc búa, ví dụ như khi nào trẻ có thể tự ngồi mà không cần hỗ trợ, phải làm gì khi trẻ mọc răng, trẻ sẽ phát triển chiều cao như thế nào, so sánh cân nặng của trẻ với những trẻ khác và cả vấn đề tiêm chủng những loại vaccine quan trọng.

Theo Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh (CDC), tiêm vaccine cho trẻ em giúp ngăn ngừa ít nhất 4 triệu ca tử vong mỗi năm trên toàn thế giới. Đó là lý do tại sao CDC khuyến cáo tiêm rất nhiều loại vaccine cho trẻ em Mỹ. Ngay khi sinh ra, trẻ sẽ được tiêm vaccine viêm gan B, để ngăn ngừa một căn bệnh lây truyền qua đường tình dục. Đây là loại vaccine được khuyến cáo tiêm cho tất cả trẻ em trong những giờ đầu sau sinh.

Hướng dẫn tiêm vaccine cho trẻ hiện nay

Hàng năm, các chuyên gia hàng đầu sẽ cùng nhau quyết định loại vaccine nào nên được đưa vào Lịch tiêm chủng khuyến cáo cho trẻ em và thanh thiếu niên của CDC dành cho trẻ từ 18 tuổi trở xuống.

Lịch tiêm chủng này do CDC khuyến cáo nhưng sau đó sẽ trở thành “bắt buộc” ở mỗi tiểu bang vì đây là điều kiện để trẻ được đi học.

Lịch tiêm chủng này được CDC, Học viện Nhi khoa Hoa Kỳ, Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ và các tổ chức y tế khác phê duyệt.

Bố mẹ của trẻ thường được thông báo rằng lịch tiêm chủng này dựa trên những nghiên cứu khoa học mới nhất của từng loại vaccine.

Hiện tại, có mười bốn loại vaccine nằm trong lịch tiêm vaccine khuyến cáo như sau:

    • Viêm gan siêu vi B: 3 mũi.
    • Rotavirus: 3 đến 4 mũi (tùy loại vaccine)
    • DTaP (bạch hầu, ho gà, uốn ván): 5 mũi; sau đó thêm 1 mũi vào lúc 11 tuổi.
    • Hib (haemophilus influenzae type b): 3 đến 4 mũi (tùy loại vaccine).
    • PCV (Phế cầu): 4 mũi.
    • Bại liệt: 4 mũi.
    • COVID-19: số mũi tùy thuộc vào độ tuổi của trẻ và tùy vào loại vaccine.
    • Cúm: 1 đến 2 mũi mỗi năm.
    • MMR (sởi, quai bị và rubella): 2 mũi.
    • Thủy đậu: 2 mũi.
    • Viêm gan A: 2 mũi.
    • HPV (virus gây u nhú ở người): 2 đến 3 mũi.
    • MenACWY (vi khuẩn viêm màng não mô cầu type A, C, W, Y): 1 đến 2 mũi.
    • MenB (vi khuẩn viêm màng não mô cầu type B): 2 đến 3 mũi.

Mặc dù trường học thường thông báo rằng tiêm vaccine là yêu cầu “bắt buộc” để trẻ được đi học, nhưng mỗi tiểu bang sẽ yêu cầu những loại vaccine khác nhau và tất cả các tiểu bang đều cho phép quyền miễn trừ y tế.

Ngoài ra, hầu hết các tiểu bang đều cho phép quyền miễn trừ liên quan đến tôn giáo, một số tiểu bang còn cho phép quyền miễn trừ liên quan đến triết học.

Tiêm quá nhiều?

Kể từ cuối những năm 1980, CDC liên tục bổ sung thêm vaccine vào lịch tiêm chủng khuyến cáo mà không loại bỏ bất kỳ loại vaccine nào ra khỏi danh sách.

Số lượng vaccine được khuyến cáo hiện nay đã tăng gấp bốn lần so với những năm 1970.

Đồng thời, sức khỏe của trẻ em ở Hoa Kỳ cũng suy giảm rõ rệt. Tuy chúng ta không chắc rằng hai điều này có liên quan với nhau hay không, nhưng nhiều bậc cha mẹ đã bắt đầu đặt câu hỏi: liệu con của họ có thực sự cần tiêm nhiều loại vaccine như vậy hay không và liệu việc tiêm vaccine quá nhiều như vậy có góp phần gây ra một số vấn đề sức khỏe cho trẻ hay không.

Nhiều bậc cha mẹ, các bác sĩ, nhà nghiên cứu đã công khai chỉ ra rằng tuy mỗi loại vaccine đều đã trải qua thử nghiệm an toàn, nhưng những loại vaccine tiêm cho trẻ em đều không được đánh giá khả năng kết hợp với các loại vaccine khác trong quá trình phê duyệt.

Collin Lynn, một bác sĩ gia đình làm việc tại Redding, California, cho biết: “Tôi nghĩ việc các bậc cha mẹ có thắc mắc và lo lắng là điều hoàn toàn hợp lý”, “Có thể chúng ta đang ở đỉnh điểm của việc tiêm quá nhiều vaccine. Đôi khi tôi tự hỏi rằng liệu trong tương lai, nếu nhìn lại những năm 2000, có khi nào chúng ta sẽ nói hỏi rằng, 'Khi đó, không biết chúng ta đã nghĩ gì vậy? Tại sao chúng ta lại tiêm nhiều vaccine như vậy?”.

Ngoài những lo ngại về tác động tích lũy của việc tiêm quá nhiều vaccine cho trẻ, các chuyên gia còn đặt câu hỏi về một số thành phần nhất định của vaccine (pdf) - trong đó có cả nhômpolysorbate 80 - liệu có an toàn hay không?

Đồng thời, tỷ lệ các bệnh mạn tính ở Hoa Kỳ cũng đang gia tăng (pdf), đến mức gần như một nửa dân số hiện đang mắc các bệnh lý mạn tính. Và những căn bệnh này chiếm đến 86% chi phí chăm sóc sức khỏe hiện tại của chúng ta.

Bệnh lý tự miễn

Trong bệnh lý tự miễn, hệ miễn dịch sẽ tạo ra các kháng thể để tấn công vào các mô của chính cơ thể chúng ta..

Bệnh đái tháo đường type 1 ở trẻ vị thành niên, bệnh Crohn, viêm loét đại tràng, xơ cứng bì, hội chứng Raynaud và lupus ban đỏ đều là những bệnh lý tự miễn.

Nghiên cứu gần đây cho thấy kể cả bệnh hen suyễn, căn bệnh ảnh hưởng đến 10% thanh niên từ 20 đến 24 tuổi, cũng là một bệnh lý tự miễn.

Tiêm quá nhiều vaccine có thể là nguyên nhân chính gây ra các bệnh lý tự miễn, bao gồm cả bệnh đái tháo đường ở người lớn và trẻ em.

Vào năm 2022, một nhóm gồm chín nhà nghiên cứu Nhật Bản đã báo cáo trường hợp một phụ nữ 51 tuổi khởi phát bệnh đái tháo đường type 1 sau 6 tuần tiêm một mũi vaccine mRNA.

Bác sĩ tại một cơ sở y tế ở thành phố Hạ Môn, tỉnh Phúc Kiến, Trung Quốc tiêm vaccine COVID-19 cho một bé gái vào ngày 15/11/2021. (STR/AFP via Getty Images)

Các nhà khoa học Trung Quốc cũng báo cáo một trường hợp tương tự. Tại Thổ Nhĩ Kỳ, các bác sĩ lâm sàng phát hiện 4 trường hợp mắc bệnh đái tháo đường type 1 ở những bệnh nhân tiêm vaccine SARS-CoV-2 mRNA.

Kết quả nghiên cứu của một bác sĩ

Bác sĩ John Barthelow Classen, tốt nghiệp y khoa tại trường Đại học Maryland, đã bắt đầu nghiên cứu các bệnh lý tự miễn vào những năm 1990.

Năm 1996, bác sĩ Classen đã đăng một bài báo trên tạp chí Autoimmunity để báo cáo kết quả nghiên cứu của ông về hoạt động điều hòa miễn dịch ở các loài gặm nhấm. Ông đã đánh giá tác động của vaccine với liều lượng tương đương với vaccine tiêm cho trẻ em.

Bác sĩ Classen phát hiện rằng vaccine được tiêm khi mới sinh hoặc tiêm trong vòng hai tuần đầu đời sẽ có tác dụng bảo vệ chống lại bệnh đái tháo đường, nhưng các loại vaccine được tiêm sau hai tháng tuổi thì có tác dụng ngược lại: Chúng làm tăng nguy cơ mắc bệnh đái tháo đường so với nhóm chứng.

Bác sĩ Classen viết: “Các nghiên cứu trên động vật đã chứng minh rằng thời gian và hàm lượng vaccine ở người có thể ảnh hưởng đến sự phát triển của bệnh đái tháo đường”. “Các thử nghiệm lâm sàng vaccine ở người không được thiết kế và thường không có khả năng để phát hiện được những tác động của vaccine đối với sự phát triển của bệnh đái tháo đường phụ thuộc insulin. Những nghiên cứu về độc tính trên động vật của vaccine chỉ ra rằng cần phải kiểm tra tác động của vaccine đối với bệnh đái tháo đường phụ thuộc insulin ở người”.

Bác sĩ Classen cho rằng việc tiêm chủng có thể khiến một số trẻ có nguy cơ mắc bệnh đái tháo đường cao hơn.

Trẻ dễ mắc bệnh đái tháo đường hơn?

Anh trai của bác sĩ Classen, David C. Classen, là một chuyên gia về bệnh truyền nhiễm tại Trường Y thuộc Đại học Utah ở Thành phố Salt Lake. Hai anh em Classen đã tìm kiếm những dữ liệu để đánh giá xem liệu rằng vaccine có thể có tác dụng bảo vệ hay khiến chúng ta dễ mắc bệnh bệnh đái tháo đường type 1 hơn không.

Năm 1997, hai anh em Classen đã công bố kết quả của trên tạp chí Bệnh truyền nhiễm trong Thực hành lâm sàng. Họ tìm thấy mối tương quan có ý nghĩa thống kê giữa những thay đổi trong công tác tiêm chủng và tỷ lệ mắc bệnh đái tháo đường.

Hai anh em nhà Classen cho rằng việc tiêm vaccine khi sinh có thể bảo vệ trẻ do tác động đến hệ miễn dịch, giúp cơ thể của trẻ chống lại sự nhiễm trùng virus coxsackie (một loại virus lây truyền từ mẹ trong khi sinh) tốt hơn. Virus coxsackie là nguyên nhân gây ra khoảng 27% các trường hợp đái tháo đường.

Tuy nhiên, hai nhà nghiên cứu phát hiện rằng ở Phần Lan, tại ba thời điểm riêng biệt, khi số lượng vaccine được sử dụng tăng lên thì sẽ kéo theo sự gia tăng của bệnh đái tháo đường type 1.

Ở Christchurch, New Zealand, tỷ lệ mắc bệnh đái tháo đường đã tăng mạnh (từ 11,2/100.000 người lên 18,1/100.000 người) sau khi áp dụng chương trình tiêm chủng vaccine viêm gan B.

Hai nhà nghiên cứu kết luận rằng: “Những nghiên cứu này cho thấy thời điểm tiêm chủng vaccine cho trẻ em có thể làm thay đổi sự phát triển của bệnh đái tháo đường phụ thuộc insulin ở người”. “Kết quả cũng chỉ ra rằng những thử nghiệm vaccine trước đây đã có sai sót vì chúng không được thiết kế để phát hiện mối liên hệ giữa việc tiêm chủng và các bệnh lý tự miễn”.

(Ảnh: pxhere.com)

Những bằng chứng khoa học chất lượng cao

Năm 1999, hai anh em nhà Classen đã viết một lá thư cho biên tập viên của tạp chí BMJ để nói về một nghiên cứu khác do họ thực hiện.

Hai nhà nghiên cứu viết rằng: “Chúng tôi đã hợp tác với Tuomilehto để thực hiện về tác động của vaccine Haemophilus influenzae type b đối với bệnh đái tháo đường type 1. Dữ liệu thu được cho thấy mối quan hệ nhân quả”.

“Hơn nữa, những nguy cơ tiềm ẩn của vaccine vượt quá lợi ích tiềm năng”.

Các nhà nghiên cứu đã so sánh một nhóm không tiêm vaccine với một nhóm tiêm một liều vaccine và một nhóm tiêm bốn liều vaccine.

Vào năm trẻ 7 tuổi, tỷ lệ mắc bệnh đái tháo đường tích lũy trên 100.000 trẻ là 261 đối với nhóm trẻ tiêm bốn mũi vaccine, 237 đối với nhóm trẻ tiêm một mũi và 207 đối với nhóm trẻ không tiêm vaccine.

Tỷ lệ khác biệt tương đối này vẫn giữ nguyên khi trẻ lớn lên. Đến năm 10 tuổi, 398 trẻ trong nhóm tiêm bốn mũi vaccine mắc bệnh đái tháo đường so với 376 trẻ ở nhóm tiêm một mũi và 340 trẻ ở nhóm không tiêm vaccine.

Nói cách khác, nhóm trẻ em đã tiêm bốn mũi vaccine Hib có nhiều hơn 58 trường hợp mắc bệnh đái tháo đường type 1 so với nhóm trẻ không tiêm vaccine, nhiều hơn 22 trường hợp so với nhóm trẻ chỉ tiêm một mũi vaccine.

Thời điểm khởi phát bệnh đái tháo đường phù hợp với cơ chế sinh học

Nghiên cứu vào năm 2002 của anh em Classen cho thấy bệnh đái tháo đường type 1 do vaccine gây ra thường mất từ ​​ba đến bốn năm để tiến triển.

Sau đó, hai anh em đã tìm kiếm các cụm trường hợp mắc bệnh đái tháo đường khi sử dụng những loại vaccine khác.

Vào năm 2003, hai người đã xuất bản một bài báo với tiêu đề “Cụm các trường hợp mắc bệnh đái tháo đường type 1 xảy ra 2-4 năm sau khi tiêm vaccine phù hợp với cụm những người bị nhiễm trùng và tiến triển thành bệnh đái tháo đường type 1 dương tính với tự kháng thể”.

Hai nhà nghiên cứu nhận thấy các cụm mắc bệnh đái tháo đường type 1 xảy ra từ 2 đến 4 năm sau khi tiêm vaccine MMR (sởi, quai bị và rubella), ho gà và BCF (lao).

Họ cũng nhận thấy tỷ lệ mắc bệnh đái tháo đường giảm sau khi ngừng sử dụng vaccine ho gà và BCG. Đây là một phát hiện rất đáng chú ý vì tỷ lệ mắc bệnh đái tháo đường đang gia tăng trên toàn thế giới.

Khoảng thời gian từ 2 đến 4 năm phù hợp do nhiều nghiên cứu đã chứng minh rằng phải mất ít nhất hai năm để các kháng thể kháng tuyến tụy phá hủy đủ số lượng tế bào tiểu đảo của tụy và gây ra bệnh đái tháo đường.

Các nghiên cứu cũng đã chứng minh rằng các bệnh lý tự miễn thường xảy ra sau khoảng ba năm kể từ khi có nhiều tự kháng thể được phát hiện trong máu.

Sử dụng tiêu chí Bradford Hill để xác định nguyên nhân

Trong y học, rất khó chứng minh được nguyên nhân.

Vì thế, nhà thống kê, nhà dịch tễ học người Anh, Austin Bradford Hill của Đại học London đã giải quyết vấn đề này bằng đưa ra chín yếu tố để đánh giá nguyên nhân vào năm 1965: tỷ lệ tương quan giữa các biến, tính nhất quán của dữ liệu, tính đặc hiệu, tính tạm thời, độ dốc sinh học (còn được gọi là mối quan hệ giữa đáp ứng và liều lượng), tính hợp lý, sự gắn kết, thử nghiệm và sự giống nhau.

Nghiên cứu của Classen đề cập đến nhiều yếu tố của tiêu chí Bradford Hill.

Mặc dù mối liên kết giữa từng loại vaccine riêng lẻ và bệnh đái tháo đường type 1 không quá mạnh, nhưng Classen đã chứng minh được tính nhất quán, tính đặc hiệu, tính tạm thời, mối quan hệ giữa đáp ứng và liều lượng, tính hợp lý và sự gắn kết.

Ngoài ra, hai anh em Classen cũng xác định được những kết quả thống kê với các nghiên cứu tiến cứu trên động vật và con người.

Như vậy, hai nhà nghiên cứu này đã cố gắng cẩn thận tìm hiểu nguyên nhân của sự việc trên mọi góc độ.

Nghiên cứu của hai chuyên gia này đã chứng minh rằng nếu chúng ta tiêm càng nhiều vaccine cho con mình, nhất là sau hai tháng tuổi, chúng sẽ càng có nguy cơ mắc bệnh đái tháo đường type 1.

Nhiều bằng chứng cho thấy sự liên quan giữa bệnh đái tháo đường vị thành niên và vaccine

Trong một bài báo được đăng vào năm 2008 (pdf), Bart Classen đã phân tích dữ liệu về những trẻ sinh từ ngày 1 tháng 1 năm 1990 đến ngày 31 tháng 12 năm 2000 của Đan Mạch .

Ông lại nhận thấy nguy cơ mắc bệnh đái tháo đường đã tăng đáng kể về mặt thống kê khi tiêm vaccine Hib, DTiP (“iP” là vaccine bại liệt bất hoạt), vaccine ho gà toàn tế bào, vaccine MMR và vaccine bại liệt đường uống.

Khi đánh giá nghiên cứu của Classen và hàng trăm nghiên cứu về vaccine khác, nhà nghiên cứu độc lập Neil Z. Miller, tác giả của cuốn sách “Đánh giá của Miller về các nghiên cứu vaccine quan trọng: tóm tắt 400 bài báo khoa học quan trọng cho phụ huynh và các nhà nghiên cứu”, cũng đã xác nhận mối liên hệ nhân quả giữa việc tiêm phòng vaccine quá mức và bệnh đái tháo đường.

Neil Z. Miller đặc biệt nói về vaccine Hib như sau: “Các bài báo khoa học… đã cung cấp những bằng chứng mạnh mẽ rằng tiêm vaccine cho trẻ em làm tăng đáng kể nguy cơ mắc bệnh đái tháo đường type 1”.“Nhiều bài báo khác cũng cho thấy nguy cơ mắc bệnh đái tháo đường type 1 tăng lên sau khi tiêm vaccine viêm gan B, MMR và vaccine ho gà. Đại dịch đái tháo đường type 2, béo phì và hội chứng chuyển hóa cũng có liên quan đến vaccine”.

Tuy nhiên, thay vì đánh giá lại hoạt động tiêm chủng hiện tại, cộng đồng y tế thường lờ đi những bằng chứng khoa học do những nhà nghiên cứu như Classen và Miller đưa ra, đồng thời coi họ là những người cực đoan chống vaccine.

Khi đứng ra chứng minh nguy cơ gây hại của những dược phẩm phổ biến và tạo ra nhiều lợi nhuận, những nhà khoa học này có nguy cơ sẽ mất đi thu nhập và vị trí trong cộng đồng khoa học.

Tuy nhiên, bác sĩ Collin Lynn đã treo một khẩu hiệu trong phòng làm việc với nội dung là: “Trong khoa học, tất cả các câu hỏi đều có giá trị và tất cả các câu trả lời đều không chắc chắn”. Ông cảm thấy việc các bậc cha mẹ đặt ra câu hỏi là rất quan trọng, đặc biệt nếu con của họ đang mắc phải những bệnh lý mạn tính như bệnh chàm, dị ứng hoặc bệnh đái tháo đường tuổi vị thành niên.

Bác sĩ Lynn khuyến khích các cha mẹ trẻ hãy trở thành những điều tra viên y tế và ông mong muốn rằng có thể hỗ trợ họ chọn được một phương pháp tiêm chủng khiến họ cảm thấy thoải mái nhất.

Bác sĩ Lynn nói: “Tôi khuyến khích cha mẹ trẻ đặt ra câu hỏi và điều tra”.

Nếu chương trình tiêm chủng hiện tại làm gia tăng tỷ lệ mắc bệnh đái tháo đường type 1 ở tuổi vị thành niên và các bệnh lý mạn tính khác thì cha mẹ trẻ cần được biết.

Quan điểm được trình bày trong bài viết này là ý kiến của tác giả và không nhất thiết phản ánh quan điểm của The Epoch Times. Epoch Health hoan nghênh các cuộc thảo luận chuyên môn và tranh luận thân thiện. Để gửi ý kiến, vui lòng làm theo những hướng dẫn này và gửi qua biểu mẫu của chúng tôi tại đây.

(Bài đăng trên The Epoch Times - Epoch Health của đồng tác giả: Jennifer Margulis-Joe Wang)

(Tiến sĩ Joe Wang: Là một nhà sinh học phân tử với hơn 10 năm kinh nghiệm trong ngành vaccine. Ông hiện là chủ tịch của New Tang Dynasty TV (Canada), và là người phụ trách một chuyên mục cho Thời báo Epoch Times).

(Tiến sĩ Jennifer Margulis: Là một ký giả từng đạt giải thưởng và là tác giả của cuốn sách “Con của bạn, theo cách của bạn: Chịu trách nhiệm về các quyết định mang thai, sinh con, và nuôi dạy con của bạn để có một gia đình hạnh phúc hơn, khỏe mạnh hơn.” Bà từng đạt giải thưởng Fulbright và là mẹ của bốn đứa con, bà đã làm việc trong một chiến dịch nhằm giảm tỷ lệ tử vong cho trẻ em ở Tây Phi, ủng hộ việc chấm dứt tình trạng nô lệ trẻ em ở Pakistan trên chương trình truyền hình vào khung giờ vàng ở Pháp, và dạy văn học hậu thuộc địa cho các sinh viên phi truyền thống ở nội thành Atlanta. Quý vị có thể tìm hiểu thêm về bà tại trang JenniferMargulis.net).

Theo The Epoch Times - Epoch Health tiếng Anh

Song Hoài biên dịch

THÔNG TIN ĐẶC BIỆT - HƯỚNG ĐI MỞ RA KỶ NGUYÊN MỚI:

    • ‘Ganjing World’ (Thế Giới Kiền Tịnh) - Một Công ty Công nghệ cao có trụ sở chính tại Middle Town, New York, ra mắt nền tảng tích hợp thông tin nghe nhìn trực tuyến thế hệ mới nhiều tính năng phong phú với công nghệ đám mây mới nhất.
    • ‘Ganjing World’ cam kết trải nghiệm thoải mái và bảo mật, phục vụ tất cả những nhà sáng tạo nội dung, có thể trình chiếu đồng thời hàng triệu video và phục vụ hàng trăm triệu lượt xem. ‘Ganjing World’ đảm bảo an toàn và lợi nhuận cao.
    • Nền tảng này không liên quan tới chính trị, không thiên vị và trung lập. ‘Ganjing World’ kiên quyết tránh xa các nội dung không phù hợp dựa trên bốn tiêu chí: “không bạo lực, không nội dung khiêu dâm, không tội phạm và không ma túy hoặc gây hại”.
    • Sứ mệnh của ‘Ganjing World’ hướng đến “Truyền thông xã hội” và “Truyền thông cá nhân” thân thiện với mọi gia đình. Một nền tảng số rộng lớn cho phép mọi lứa tuổi tự do chia sẻ kiến thức, ý tưởng, quan điểm và giải trí về nhiều chủ đề… mà không sợ bị kiểm duyệt. ‘Ganjing World’ mang đến trải nghiệm phong phú và trong sạch.

 



BÀI CHỌN LỌC

Điều gì xảy ra khi con bạn tiêm quá nhiều loại vaccine?