Điều 70.000 quân đến nước khác chỉ để cướp một nhà sư

Giúp NTDVN sửa lỗi

Lịch sử huyền thoại của một nhà sư, người khiến ba vị hoàng đế và hai cuộc chiến tranh nổ ra chỉ với mục đích cướp được ông. Sau khi qua đời, ông được Hoàng đế Đường Thái Tông lập bia đề từ. Ông là ai, và có khả năng phi thường gì?

Vị tăng nhân đó chính là Cưu Ma La Thập (Kumārajīva), người duy nhất trên thế giới sau khi viên tịch hỏa táng có "xá lợi lưỡi".

Khi nghe cái tên này, một số người có thể nói rằng vị cao tăng này cùng họ với Cưu Ma Trí, Quốc sư Thổ Phồn trong tiểu thuyết Thiên Long Bát Bộ của Kim Dung phải không? Trong tiểu thuyết, cuộc đời của Cưu Ma Trí khá huyền thoại, ông say mê võ thuật trong nửa đầu đời, và sẽ làm bất cứ điều gì để học được môn võ thuật tốt nhất. Tuy nhiên, sau khi nội lực vô tình bị hút đi, võ công bị mất hết, ở trong bùn lầy dưới đáy giếng, ông đại triệt đại ngộ, từ đó dốc lòng hoằng dương Phật pháp, cuối cùng trở thành một thế hệ cao tăng lỗi lạc.

Một số người hâm mộ võ thuật cho rằng, nhân vật Cưu Ma Trí này chắc chắn là hư cấu, bởi vì trong thời đại mà các nhân vật của Thiên Long Bát Bộ sống, quốc gia Thổ Phồn đã không còn tồn tại từ lâu. Tuy nhiên, Cưu Ma La Thập là một cao tăng đã được ghi vào sử sách, có lẽ đã truyền cảm hứng cho Kim Dung rất nhiều. Tình tiết Cưu Ma Trí giác ngộ trong bùn lầy, và tình tiết một vị cao tăng tuyệt đỉnh khác là Hư Trúc bị buộc phải phá giới, không nhiều thì ít đều có bóng dáng của Cưu Ma La Thập.

Trên thực tế, cuộc đời của Cưu Ma La Thập thật tráng lệ và đầy những khúc ngoặt, thú vị hơn nhiều so với cuộc đời của Cưu Ma Trí.

Tuổi thơ của bậc trí tuệ

Câu chuyện phải bắt đầu với cha của Cưu Ma La Thập là Cưu Ma La Viêm (Kumārāyana). Gia tộc Cưu Ma là một gia tộc danh giá ở Thiên Trúc, cũng chính là danh môn vọng tộc ở Ấn Độ ngày nay, nhiều đời làm tể tướng. Tuy nhiên, Cưu Ma La Viêm chỉ muốn trở thành một người xuất gia tu hành, để tránh số phận làm quan, ông đã đi vân du đến các quốc gia khác.

Một ngày, ông đến đất nước Quy Từ (tiếng Phạn là Kucina), ngày nay thuộc huyện Sakhalin, Tân Cương. Em gái của nhà vua là Kỳ Bà đã yêu ông ngay từ cái nhìn đầu tiên, nhà vua thương em nên đã buộc La Viêm hoàn tục và cưới công chúa. Nhưng sau khi kết hôn cả hai sống rất hạnh phúc và không lâu sau công chúa mang thai.

Sau khi mang thai, công chúa thấy mình thông minh hơn bình thường rất nhiều và có thể nói tiếng Ấn Độ mà không cần người dạy. Điều này làm mọi người ngạc nhiên. Một thầy toán mệnh đã từng nói với công chúa rằng, cô đã được định sẵn để sinh ra một con trai với trí tuệ tuyệt vời, và dường như lời nói đó đã trở thành sự thật.

Quả nhiên, Cưu Ma La Thập đã đáp ứng được kỳ vọng, cậu thông minh và nhanh trí từ khi còn là một đứa trẻ, có khả năng nhìn qua sẽ không quên. Năm 7 tuổi, mẹ cậu đưa cậu cùng đi xuất gia. Cậu bé bắt đầu học kinh Phật với tốc độ như bay. Vào thời điểm đó, giấy vẫn còn rất đắt đỏ, các nhà sư ở Tây Vực chủ yếu nghiên cứu kinh Phật dựa vào ghi nhớ. Sư phụ truyền miệng cho đệ tử.

Cưu Ma La Thập đã đáp ứng được kỳ vọng, cậu thông minh và nhanh trí từ khi còn là một đứa trẻ, có khả năng nhìn qua sẽ không quên. (Chụp màn hình)

Sư phụ của La Thập chưa bao giờ thấy một đệ tử nào dễ hướng dẫn như cậu. Đứa trẻ này thực sự có thể "đọc một nghìn bài kệ trong một ngày". Mỗi bài kệ có 32 chữ, tức là cậu có thể ghi nhớ 32.000 chữ kinh điển mỗi ngày. Cậu chỉ mất hai ngày để ghi nhớ hơn 60.000 từ trong "Pháp Hoa Kinh", đó là một tốc độ đáng kinh ngạc. Mà cậu cũng không cần thầy giáo dạy, chỉ cần học thuộc lòng, liền hiểu ý nghĩa.

Dần dà thầy không còn dạy được nữa. Năm lên 9 tuổi, cậu được mẹ đưa đi vân du các nước để học hỏi thêm về Phật Pháp cao thâm. Vào thời điểm đó, có rất nhiều quốc gia nhỏ ở Tây Vực. Họ đã đi khắp mọi nơi, nhìn thấy rất nhiều phong cảnh và gặp gỡ nhiều kỳ nhân dị sĩ. Hôm đó tại núi Bắc Sơn nước Nguyệt Chi, hai mẹ con gặp một vị La Hán. Vị La Hán nhìn La Thập từ trên xuống dưới, rồi nói với công chúa: “Hãy chăm sóc đứa bé này cho tốt, nếu như chú tiểu này không phạm giới vào năm 35 tuổi, sau này sẽ ‘Đại hưng Phật Pháp, độ vô số người’ nếu phạm giới sẽ không đạt được thành tựu lớn như vậy, nhưng có thể trở thành một pháp sư với một số thành tựu”.

Vậy La Thập sẽ có số phận như thế nào trong tương lai?

Khởi hành đi Đông Thổ

Khi La Thập 20 tuổi, mẹ anh đưa La Thập trở lại Quy Từ, bảo anh ở lại đó rồi bà đi Thiên Trúc để tu luyện. Trước khi đi, mẹ anh nói rằng: “Trong tương lai Phật Pháp sẽ được truyền đến phương Đông và con có thể đóng một vai trò lớn, vì vậy con phải ở lại. Chỉ là con có thể sẽ phải chịu khổ đôi chút. Con có thể chấp nhận không?”

La Thập nói: “‘Đại sĩ’ có thể vì người khác mà quên đi bản thân. Chỉ cần đại hưng Phật Pháp, con dù có bị ném vào nồi thiêu đốt thì cũng ‘dù khổ vẫn không oán hận’”.

Thời gian trôi nhanh như một mũi tên bay, mười năm như một cái búng tay. Sau khi La Thập sống 20 năm ở Quy Từ, thử thách định mệnh của ông đã đến, và chuỗi ngày đau khổ của ông bắt đầu.

Vào thời điểm đó, ông đã là một cao tăng nổi tiếng. Chẳng những thông kinh Phật, không ai có thể biện luận được với ông, 36 bàng môn, 72 tả đạo đều bị ông đánh bại, hơn nữa ông còn am tường mọi thứ về thiên văn địa lý, âm dương ngũ hành, không điều gì không thông, bói hung cát, không điều gì không chuẩn.

Vua Quy Từ đã làm riêng một chiếc ghế sư tử bằng vàng cho ông để ông dùng khi giảng kinh thuyết pháp. Các vị vua của các quốc gia khác ở Tây Vực cũng thường mời ông đến thuyết pháp. Ông đi đến đâu cũng được mọi người khen ngợi về dung mạo đẹp như Thần và phong thái phi phàm.

Danh tiếng của La Thập cũng lan rộng ở các nước ở Tây Vực. Danh tiếng càng vang xa, một truyền mười, mười truyền trăm, cuối cùng truyền đến tai của Hoàng Đế Trung Nguyên Phù Kiên. Vào thời điểm đó, Phù Kiên gần như thống nhất hầu hết miền bắc Trung Quốc và thành lập nước Tần, trong lịch sử xưng là Tiền Tần. Một ngày nọ, Khâm Thiên Giám nói với Hoàng đế rằng: Thần đã quan sát thiên thượng, suy luận rằng sẽ có một người đại trí huệ sẽ đến trợ giúp Trung Quốc. Phù Kiên rất vui khi nghe điều đó và nghĩ ngay đến Cưu Ma La Thập. Vừa vỗ đùi vừa cử tướng quân Lã Quang đi viễn chinh Tây Vực, mời La Thập về làm Quốc sư.

Bên này tướng quân Lã Quang điều binh, cùng 70.000 tinh binh lên đường. Bên kia La Thập đã cảm nhận được. Ông nói với Quốc vương nước Quy Từ là Bạch Thuần rằng một đội quân lớn từ Trung Nguyên sẽ đến trong vài ngày tới, đừng giao chiến trực diện với họ, chỉ cần mở cổng thành để chào đón họ.

Có lẽ vì Thiên cơ bất khả lộ, La Thập đã không nói với nhà vua rằng đội quân ấy đến vì ông. Quốc Vương không biết phải làm gì nên không nghe. Vào thời điểm đó, đội quân thiết kỵ của Trung Nguyên vẫn còn rất hùng mạnh, trận chiến giữa hai đội quân không có gì hồi hộp, Lã Quang giành được thắng lợi hoàn toàn, dẫn quân vào thành tìm La Thập. Nhưng không biết vì sao, Lã Quang lại không thích vị Quốc sư này, luôn muốn trêu chọc ông.

Một ngày Lã Quang nói với ông, đem công chúa gả cho ông, ông có muốn không? La Thập đương nhiên không đồng ý. Lã Quang cười nói: "Thưa ngài, đức hạnh của ngài so với cha ngài như thế nào? Ngài đừng từ chối."

Sau đó, ông ta cho La Thập và công chúa uống rượu say rồi nhốt họ vào trong căn phòng bí mật. Câu chuyện này khá giống với câu chuyện Hư Trúc bị ép phá giới trong Thiên Long Bát Bộ. Không có gì ngạc nhiên khi một số người nói rằng Kim Dung có thể đã tìm thấy nguồn cảm hứng từ La Thập. Hư Trúc sau đó đã kết hôn với công chúa, nhưng số phận của La Thập lại rẽ sang một hướng khác.

Sống ở Lương Châu 17 năm

La Thập nhớ lại những gì mẹ đã nói khi đó, và trở về Trung Nguyên cùng với Lã Quang. Lã Quang trên đường đi nhiều lần trêu chọc ông, người khác cưỡi ngựa, cho ông cưỡi bò, có lúc còn cho ông cưỡi một con ngựa hung dữ, nhìn ông bị ngựa hất xuống đất, mọi người xúm lại cười. Nhưng La Thập đã chịu đựng tất cả những điều này mà không một lời phàn nàn.

Cưu Ma La Thập. (Miền công cộng)

Dần dần, Lã Quang ngừng hành hạ ông. Ngày hôm đó, họ đi bộ xuống một ngọn núi dừng chân nghỉ ngơi. Nhưng La Thập rất lo lắng nói với Lã Quang không nên ở lại lâu, khuyên Lã Quang hãy nhanh chóng tìm một nơi thoáng đãng để cắm trại. Lã Quang không nghe. Kết quả là nửa đêm trời mưa to, lũ quét ập đến, hàng nghìn binh lính bị cuốn trôi. Kể từ đó, Lã Quang nhìn La Thập với ánh mắt ngưỡng mộ. Bằng cách này, La Thập đã lấy đức để báo oán và khuất phục được Lã Quang.

Sau đó, khi đi đến nửa đường, Phù Kiên bị Diêu Trường giết hại, Tiền Tần bị tiêu diệt. Lã Quang không về nữa, lập quốc ở Lương Châu nơi biên ải, lên làm Hậu Lương Vương. La Thập cũng sống ở Lương Châu 17 năm. Trong 17 năm đó, Lã Quang và con trai của ông ta đối xử tốt với La Thập, nhưng họ không cho ông cơ hội để hoằng dương Phật Pháp. Tuy nhiên, La Thập không lãng phí thời gian mà dành hết tâm trí cho việc học tiếng Hán, đọc sách cổ và nghiên cứu kinh điển của nhiều trường phái tư tưởng khác nhau. Sự thật sau này đã chứng minh rằng 17 năm lắng đọng đó thực sự cần thiết.

Phiên dịch kinh Phật - Xá lợi lưỡi

Trên mảnh đất Trung Nguyên mà ông luôn tâm niệm, Diêu Trường, người đã tiêu diệt Tiền Tần, lập ra nước Hậu Tần. Sau khi Diêu Trường qua đời, con trai của ông ta là Diêu Hưng kế vị. Diêu Hưng yêu thích Phật Pháp nồng hậu nên đã cử người đến Lương Châu để đón La Thập. Lã Quang không chịu để ông đi. Vài năm sau, Diêu Hưng quyết đưa quân tiêu diệt Hậu Lương và mang La Thập trở về. Khoảnh khắc nổi bật của cuộc đời La Thập cũng bắt đầu từ đó.

Quả nhiên, Diêu Hưng đã phong La Thập làm Quốc sư và nhờ ông phiên dịch kinh Phật, vì lý do này, Diêu Hưng xây dựng hai tòa nhà dịch thuật và tìm hơn 800 tăng nhân đến để giúp đỡ. La Thập ghi nhớ những bộ kinh thư mà ông đã thuộc lòng từ khi còn là một đứa trẻ, nhờ người sao chép và dịch lại, sau đó ông kiểm tra từng chữ một. Từ năm 58 tuổi ông đến Trường An, đến khi qua đời ở tuổi 70, chỉ trong 12 năm, ông đã phiên dịch hơn 300 quyển kinh, có thể nói là một số lượng đáng kinh ngạc. Kinh Phật do ông phiên dịch không chỉ nhiều về số lượng mà còn có chất lượng cao.

Kinh thư tiếng Phạn rất chú trọng đến vận luật, các hòa thượng ghi nhớ Kinh Phật là có thể ngâm xướng. Tuy nhiên, loại vận luật này không có mối quan hệ tương ứng trong tiếng Trung, vì vậy rất khó hiểu nếu nó được dịch sang tiếng Trung. Nếu dịch theo nghĩa đó, ai có thể đảm bảo chính xác nội dung? Vào thời điểm này, 17 năm lắng đọng của La Thập đã có ích. Các bản kinh do ông phiên dịch bằng Hán ngữ uyên thâm không những chính xác về nghĩa mà còn dễ hiểu, dễ đọc.

Hiện nay có sáu bản Kinh Kim Cương bằng tiếng Hán, trong đó có bản do Pháp sư Đường Tam Tạng Huyền Trang dịch. Tuy nhiên, phiên bản của Cưu Ma La Thập được lưu hành rộng rãi nhất. Cuốn sách in sớm nhất trên thế giới là một cuốn kinh Phật từ thời nhà Đường, được tìm thấy trong hang động Mạc Cao ở Đôn Hoàng, nội dung là "Kinh Kim Cương" do Cưu Ma La Thập dịch.

Kinh Kim Cương do Cưu Ma La Thập dịch - bản viết tay của Trương Tức thời Nam Tống. (Miền công cộng)

Có thể một số người sẽ nói bản dịch của ông dễ hiểu, nhưng ai biết nghĩa của nó có chính xác hay không? Không ai trong chúng ta hiểu tiếng Phạn, phải không? Nhưng đối với điểm này, La Thập tràn đầy tự tin. Trước khi qua đời, ông nói với những người xung quanh: "Tôi hy vọng rằng những bản kinh mà tôi đã dịch sẽ được lưu truyền và tiếp nối trong các thế hệ tương lai. Bây giờ trước công chúng, tôi xin thành thật phát nguyện: dịch là chính xác, nếu tôi phiên dịch kinh Phật không có sai, nguyện rằng thân thể sau khi hỏa táng lưỡi sẽ còn nguyên vẹn".

Quả nhiên, sau khi ông viên tịch, mọi thứ đã bị đốt cháy thành tro sau khi hỏa táng, nhưng lưỡi của ông vẫn còn đó. Đây là "lưỡi xá lợi" độc nhất vô nhị trên thế giới.

"Xá lợi lưỡi" này sau đó được cất giữ tại chùa Thảo Đường ở huyện Hộ, tỉnh Thiểm Tây. Vào thời nhà Đường, Hoàng đế Đường Thái Tông Lý Thế Dân cũng đã lập một bia văn cho xá lợi lưỡi, trong đó viết:

“Thập vạn lưu sa lai chấn tích, tam thiên đệ tử cộng phiên kinh. Văn hàm kim ngọc tri vô hủ, thiệt tự lan tô thượng hữu dung.”

Tạm dịch: “Mười vạn dặm xa cao tăng đến, ba ngàn đệ tử cùng dịch kinh. Lời vàng tiếng ngọc là bất hủ, lưỡi như hoa lan vẫn còn thơm”.

Tháp chứa xá lợi lưỡi của Cưu Ma La Thập. (Wikipedia)

Hoa sen trong bùn

Nói về ba nghìn đệ tử này, Thái Tông thực sự không phóng đại. Ngoài vai trò là một thông dịch viên, La Thập còn là một Quốc sư, ông thường giảng kinh thuyết Pháp. Vào thời điểm đó, từ Hoàng đế Diêu Hưng đến các vương công đại thần cho đến thường dân đều rất ngưỡng mộ ông. Năm đó sư phụ của La Thập từ Quy Từ đến thăm ông và hỏi ông đã dẫn dắt bao nhiêu đệ tử. La Thập nói: “Con có ba nghìn đệ tử, con chỉ chịu trách nhiệm dạy dỗ họ, nhưng con không dám làm sư phụ của họ, bởi vì con có rất nhiều tội lỗi”.

Sư phụ cảm thấy kỳ lạ, La Thập đã chăm chỉ học Phật Pháp từ khi còn nhỏ, làm sao có thể phạm phải sai lầm nghiêm trọng được? La Thập liền nói ra việc 2 lần phạm giới của mình.

Hóa ra vì Hoàng đế Diêu Hưng quá ngưỡng mộ La Thập nên đã nhất quyết yêu cầu ông để lại hậu duệ, trước tiên cử hai cung nữ, sau đó cử 10 mỹ nữ. La Thập đã không phản đối kịch liệt mà chỉ im lặng chấp nhận, ông rời khỏi tăng phòng và sống một cuộc đời của người thường.

800 hòa thượng làm công việc phiên dịch thấy thế thì cũng không thể ngồi yên được nữa, và họ cũng rục rịch đòi cưới vợ sinh con. Trong bữa ăn hôm đó, mọi người bước vào phòng ăn thì thấy trên bàn không có thức ăn, chỉ có một gói kim khâu. Lúc này, La Thập đang ngồi ở phía trên nói, chúng ta ăn đi, sau đó cầm lấy một nắm kim và nuốt xuống. Mọi người đều chết lặng. Lúc này, La Thập nói với mọi người, nếu các vị cũng có thể nuốt túi kim này, các vị có thể cưới vợ và sinh con. Các hòa thượng thất thần nhìn nhau, từ đó không ai dám nhắc đến chuyện dọn ra ở riêng.

Về sau khi La Thập giảng kinh đã nói rằng, những bông sen tinh khiết có thể mọc lên từ bùn hôi, mọi người chỉ cần hái những bông sen, đừng nhúng vào bùn. Ý nghĩa là gì? La Thập so sánh mình với bùn và Phật Pháp với hoa sen. Nghĩa là mọi người chỉ nên học Phật Pháp, đừng bắt chước tôi, đừng lấy tôi làm gương. Bởi vì tôi là một con người, tôi có những khuyết điểm của một con người. Tôi biết tôi đã làm không tốt, vì vậy đừng học hỏi tất cả những thiếu sót của tôi.

Thái độ chân thành và tinh thần tự kiểm điểm như vậy có thể là lý do khiến Cưu Ma La Thập vẫn được kính trọng như một thế hệ cao tăng lỗi lạc dù đã hai lần phạm giới. Không biết việc Kim Dung để nhân vật Cưu Ma Trí ở trong bùn lầy mà ngộ đạo, liệu có phải được truyền cảm hứng từ câu chuyện của La Thập hay không, nhưng đôi khi những câu chuyện thực tế có thể thú vị và cảm động hơn tiểu thuyết rất nhiều.

Phù Dao - Epochtimes
Lý Ngọc biên dịch



BÀI CHỌN LỌC

Điều 70.000 quân đến nước khác chỉ để cướp một nhà sư