Văn nghệ Phục hưng tôn vinh Chúa hay văn minh nhân loại?

Giúp NTDVN sửa lỗi

Bức tranh "Chúa tạo ra Adam" (The Creation of Adam) - kiệt tác của Michelangelo tại nhà nguyện Sistine  được xem là đỉnh cao của văn nghệ thời kỳ Phục hưng ở Ý, nhưng bức tranh này không hề tách rời với các tác phẩm ở thời Trung cổ.

Những ký ức sớm nhất của tôi về nước Ý là cuộc sống tuổi thơ tại Venice. Đó là một thế giới vô cùng tuyệt vời và kỳ lạ, khiến tôi cảm thấy giống như đang lạc vào xứ sở thần tiên của Alice. Tôi nhớ rằng, khi tôi đuổi theo những chú chim bồ câu trên quảng trường Piazza San Marco, cha tôi sẽ vẽ lại khung cảnh trước mắt bằng những bức tranh màu nước.

Khi lớn lên, tôi bắt đầu nghiên cứu về lịch sử nghệ thuật. Tôi thường xuyên đi từ thành phố Salzburg của Áo - nơi tôi học đại học đến vùng Umbria và Tuscany ở Ý để tìm hiểu về những tác phẩm nghệ thuật trong các nhà thờ, tu viện hay bảo tàng.

Cuối cùng, tôi đã chuyển đến Florence để có thể tiếp tục nghiên cứu các tác phẩm điêu khắc cổ điển. Tôi cũng quyết định sẽ định cư tại thành phố này - một thành phố với vô số các kiệt tác nghệ thuật và những câu chuyện kể về cái nôi của thời kỳ Phục hưng ở Ý.

Kỹ thuật sử dụng phép thấu thị cùng những kiến thức về giải phẫu cơ thể người và cách vận dụng sáng tạo hiệu ứng sáng tối đã đưa nghệ thuật Phục hưng ở Ý trở thành một trào lưu thời bấy giờ. Bức tranh “Chúa tạo ra Adam” của Michelangelo trên trần nhà nguyện Sistine ở Rome chính là tác phẩm đỉnh cao của trào lưu lưu này. Tuy nhiên, sự ngưỡng mộ của người đời sau với các kiệt tác ở thời kỳ Phục hưng không chỉ nằm ở sự đổi mới tư duy và kỹ thuật, mà còn ở nhiều giá trị đặc biệt khác.

Các nhà sử học nghiên cứu Thời đại Khai sáng thường cho rằng thời kỳ văn nghệ Phục hưng chính là bước chuyển tiếp đầu tiên giúp nền văn minh nhân loại tiến vào thời kỳ hiện đại. Những nhà sử học này tin rằng, thời kỳ Phục hưng của Ý diễn ra khi người ta tìm lại được những tư tưởng văn hóa và mỹ thuật của Hy Lạp cổ đại, đồng thời xóa bỏ Thời kỳ Tăm tối của nền văn minh Trung cổ - một xã hội không có học thức và chán ghét niềm vui. Vào thời kỳ Phục hưng, các nghệ thuật gia tìm kiếm vẻ đẹp của vật chất thông qua hình tượng cơ thể người, họ không còn tập trung vào Chúa và các vị Thần mà bắt đầu tin nhiều hơn vào bản thân mình.

Điều này nghe có vẻ hợp lý, tuy nhiên đó không phải là nước Ý mà tôi từng biết và yêu mến. Bất cứ ai từng trực tiếp trải nghiệm các tác phẩm nghệ thuật trong những viện bảo tàng và nhà thờ ở Ý đều biết rằng nhận định trên hoàn toàn không đúng sự thật. Rất nhiều tác phẩm trước, trong và sau thời kỳ Phục hưng đều thể hiện niềm tin vào Chúa.

Văn nghệ Phục hưng đã bắt nguồn từ thời Trung cổ

Để hiểu rõ hơn những yếu tố đã góp phần tạo nên một giai đoạn vàng son của nền văn minh nhân loại, trước tiên chúng ta sẽ phải tìm hiểu về “một nền văn minh đã mất được tái sinh ở Ý."

Nhà sử học John Monfasani, chuyên gia nghiên cứu về thời kỳ Phục hưng đã làm sáng tỏ những quan niệm sai lầm về Thời kỳ Tăm tối. Những quan niệm này chịu ảnh hưởng từ các bộ phim nổi tiếng của Hollywood, như "Tên của hoa hồng” (The Name of the Rose), "Robin Hood" và "Mật mã Da Vinci”. Hầu hết những bộ phim này đều miêu tả thời Trung cổ ở châu Âu là một thời kỳ bạo lực và lạc hậu.

Monfasani đã đưa ra nhiều lập luận để sửa chữa những sai lầm này. Trong bài phê bình cuốn sách “The Swerve: How the World Became Modern” của Stephen Greenblatt - một trong những cuốn sách bán chạy nhất New York Times, ông đã chỉ rõ những luận điểm không phù hợp trong cuốn sách.

“Để minh họa mức độ sai sót trong cuốn 'The Swerve', tôi sẽ điểm qua từng điểm một trong bức chân dung về thời Trung cổ của Greenblatt. Đầu tiên, đúng là có những lúc toàn bộ nền văn hóa của chúng ta đã quay lưng với việc đọc và viết nhưng điều này không xảy ra ở châu Âu vào thời Trung cổ. Trên thực tế, thời Trung cổ được xem là thời kỳ thân thiện với sách nhất ở châu Âu, đó là thời kỳ mà sách - Thiên Chúa giáo, Hy Lạp hay La Mã đều giống nhau - đều được xem là vật rất quan trọng. Các độc giả và những nhà văn ở thời Trung cổ, không chỉ có giới tăng lữ, mà ngay cả những người làm công tác văn học và lịch sử, đều chịu ảnh hưởng sâu sắc từ các Thánh thư và những tài liệu Kinh Thánh, đặc biệt là từ sau thế kỷ thứ 10”.

Các tu viện thời Trung cổ không chỉ được xây dựng để cầu nguyện mà còn là nơi tập trung để trao đổi kiến ​​thức, sáng tạo và học hỏi. Chúng ta có thể đặt ra một giả thuyết, đó là cuộc sống hàng ngày của người dân thời Trung cổ cũng phức tạp như ở bất kỳ một thời đại nào khác, có đầy đủ cả yêu, ghét, tin tưởng, nghi ngờ, tò mò và cả sự thiếu hiểu biết. Trong hoàn cảnh đó, chúng ta sẽ hình dung được một bức tranh chính xác hơn.

Bức tranh “Đức Mẹ đồng trinh trong hang đá” (Virgin of the Rocks) của Leonardo da Vinci được hoàn thành vào 1506. Tranh sơn dầu trên bảng gỗ bạch dương; kích thước 74,5 inch x 47 inch. Bức tranh “Đức Mẹ đồng trinh trong hang đá” là một tác phẩm cổ điển của thời Phục hưng, tiếp nối những lý tưởng của giai đoạn Trung cổ. (Trung tâm Đổi mới Nghệ thuật)

Khi nhìn vào những tác phẩm nghệ thuật của thời Trung cổ, sau hàng trăm năm không ngừng đổi mới, chúng ta sẽ thấy rằng những tác phẩm thời kỳ này càng ngày càng đẹp hơn. Như vậy, rõ ràng là nền văn minh phương Tây đã ra đời ở Châu Âu vào thời Trung cổ.

Ảnh hưởng từ Bắc Ý

Chúng ta có thể tìm thấy dấu vết của những tiến bộ này trong các tác phẩm nghệ thuật ở nhiều thời kỳ khác nhau. Tại vùng cực bắc của nước Ý, chúng ta có thể bắt gặp kỹ thuật khắc họa nhân vật xuất sắc của các nghệ sĩ ở đây. Ví dụ, theo suy đoán của nhà sử học nghệ thuật người Đức Ernst Gombrich, ngay từ năm 1220, bức tượng "Kỵ sĩ Bamberg" ở nhà thờ Bamberg của Đức đã có thể tạo hình nhân vật với kích thước thật. Bức tượng này có tỷ lệ chính xác, trang phục tinh tế và các đường nét trên cơ của ngựa cũng được thể hiện rất chi tiết, v.v...

Bức tượng "Bamberg Rider" trong Nhà thờ Bamberg thể hiện trình độ tay nghề cao của các nghệ sĩ thời Trung cổ. Tác phẩm này có lẽ được hoàn thành sớm nhất là vào năm 1220. (Reinhold Möller/CC BY-SA 4.0)

Kỹ thuật vẽ tranh sơn dầu bắt nguồn từ các nước Bắc Âu và được phát triển nhờ việc theo đuổi chủ nghĩa hiện thực của Jan van Eyck ở Bruges, Bỉ. Vào đầu thế kỷ 15, Van Eyck và những người Flemish cùng thời ở Flanders (nay là miền bắc nước Bỉ) đã thể hiện một trình độ hội họa chưa từng có bằng cách thể hiện tác phẩm trên nhiều chất liệu khác nhau như kim loại, thủy tinh, nhung, cotton và lụa. Phong cách nghệ thuật của những nghệ sĩ này bắt nguồn từ những bức tranh thu nhỏ của thời kỳ hậu Gothic.

Tuy nhiên, những nghệ sĩ Flemish này hiếm khi được ghi nhận là có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của văn nghệ thời kỳ Phục hưng. Ngay cả thuật ngữ "những người Flemish nguyên thủy" mà các nhà sử học nghệ thuật sử dụng từ thế kỷ 19 cũng thể hiện định kiến này. Trên thực tế, chúng ta chỉ cần nhìn bức tranh “Bàn thờ của Ghent” (Ghent Altarpiece) hoành tráng của Van Eyck cũng đã có thể thấy được rằng những tác phẩm của ông hoàn toàn không phải là "nguyên thủy". Tác phẩm này không chỉ có chất lượng xuất sắc mà còn mang theo rất nhiều ý nghĩa tượng trưng.

Bức tranh Bàn thờ của Ghent (Ghent Altarpiece) gồm có 12 phần, là kiệt tác của nghệ sĩ người Flemish Jan van Eyck. Bức tranh này được sáng tác vào năm 1432, trước thời kỳ Phục hưng ở Ý. Bức tranh hiện được đặt tại Nhà thờ Saint Bavo, Ghent, Bỉ. (Ảnh thuộc miền công cộng)

Vậy những câu chuyện về thời kỳ Phục hưng ở Ý và sự chiến thắng của thời kỳ văn nghệ Phục hưng so với thời kỳ Tăm tối xuất phát từ đâu? Để tìm hiểu điều này, chúng ta sẽ phải xem xét nguồn gốc của tên gọi "Phục hưng".

Người phát minh ra thuật ngữ Phục hưng: Giorgio Vasari

Giorgio Vasari, nhà sử học nghệ thuật đầu tiên của thế kỷ 16, lần đầu tiên đề cập đến từ "Phục hưng" trong một cuốn sách về tiểu sử các nghệ sĩ với tên đầy đủ là "Cuộc đời của những họa sĩ, nhà điêu khắc và kiến ​​trúc sư xuất sắc nhất". Mặc dù chín phần trong cuốn sách của ông chứa đựng những thông tin quý giá về cuộc đời và tác phẩm của những nghệ thuật gia vĩ đại nhất, nhưng những mô tả của Vasari lại không hoàn toàn chính xác.

Cuộc đời của những họa sĩ, nhà điêu khắc và kiến ​​trúc sư xuất sắc nhất (Le Vite de’ Piv Eccellenti Pittori Scultori et Architettori) được tác giả Giorgio Vasari viết vào năm 1568. Harris Brisbane Dick Fund, 1929; trong bộ sưu tập của Bảo tàng Nghệ thuật Metropolitan. (Ảnh thuộc miền công cộng)

Lời kể của Vasari về sự ra đời của thời kỳ Phục hưng bị nhiều người nghi ngờ. Trong lời nói đầu của cuốn sách, Vasari đã mô tả tất cả những tác phẩm được tạo ra sau khi Đế chế La Mã sụp đổ và trước khi đến thời kỳ Phục hưng là những con quái vật, đầy sự man rợ với những tòa nhà biến dạng... là sự xúc phạm đến thế giới lúc thời bấy giờ. Ông miêu tả tóm tắt những người man rợ này đã lật đổ Đế chế La Mã như thế nào, và Cơ đốc giáo mới, sau một "cuộc đấu tranh lâu dài và đẫm máu" đã xóa bỏ tín ngưỡng cổ xưa của những tín đồ dị giáo như thế nào. Cuối cùng, tư tưởng Hy Lạp được tái sinh ở Ý, đã đưa nghệ thuật lên một tầm cao mới, khiến mọi người vô cùng vui mừng.

Ngày nay, các nhà sử học và khảo cổ học đều biết rằng đây là một sự châm biếm có chủ ý (để làm nổi bật một điều tốt đẹp khác) với những sự kiện xảy ra thời bấy giờ. Nhà sử học nghệ thuật người Đức Gerd Blum trong cuốn sách "Giorgio Vasari, nhà phát minh của thời kỳ Phục hưng" (Giorgio Vasari, the Inventor of the Renaissance) chỉ ra rằng Vasari đã ca ngợi quá mức thời đại của ông.

Những ghi chép của Vasari cũung từng bị nhà phê bình nghệ thuật người Anh Waldemar Januszczak chỉ trích trong loạt phim tài liệu The Renaissance Unchained.

Hơn nữa, chúng ta đều biết rằng sự hợp nhất của chủ nghĩa Aristotle và Cơ đốc giáo cũng đã phát triển mạnh mẽ từ thế kỷ thứ VIII, chứ không phải từ thời kỳ Phục hưng.

Chỉ đến tận ngày nay, chúng ta mới hiểu được rằng nền nghệ thuật của Ý có thể đạt đến đỉnh cao là nhờ những tác phẩm truyền thống bắt nguồn từ các phân xưởng của tu viện, cùng sự ảnh hưởng từ nhiều quốc gia khác và nhiều nền văn hóa truyền thống khác.

Các tác phẩm của thời Phục hưng muốn truyền đạt điều gì?

Bất kể thời kỳ Phục hưng Ý đã có tác động như thế nào thì những giá trị của thời kỳ này cũng vượt qua khỏi những thành tựu về kỹ thuật, khiến đến mọi người trên toàn thế giới đến nay vẫn không ngừng say mê.

Khi sống ở Florence, tôi nhớ rằng mình đã đạp xe qua quảng trường Piazza del Duomo mỗi ngày và nhìn thấy Cánh cổng Thiên đường (The Gates of Paradise) ở Nhà thờ rửa tội Thánh John. Cánh của này được xây dựng từ năm 1425 đến 1452 và đây là khu vực luôn có hàng trăm du khách tấp nập tham quan mỗi ngày.

Cánh cổng Thiên đường (The Gates of Paradise) là tác phẩm trên hai cửa bằng đồng mạ vàng của nhà điêu khắc Lorenzo Ghiberti, ở lối vào phía bắc của Nhà rửa tội Thành John (Kiev. Victor/Shutterstock)

Cánh cổng điêu khắc của Lorenzo Ghiberti là tác phẩm nghệ thuật khiến tôi ngưỡng mộ nhất. Sự tráng lệ của cảnh cổng luôn làm tôi choáng ngợp. Michelangelo cũng từng mô tả cánh cổng này "đủ đẹp để trở thành cánh cổng vào Thiên đường". Ngoài ra, điều đặc biệt ấn tượng ở cánh cửa này là bức tranh mô tả sự sáng tạo của Adam và Eva: Adam trong trạng thái nửa tỉnh nửa mê, cơ thể của Adam bay lên không trung, được chạm vào Chúa và được ban cho sự sống.

Một phần của bức tranh Cánh cổng Thiên đường (The Gates of Paradise) của Ghiberti mô tả Adam và Eva. (Thermos/CC BY-SA 2.5)

Khi thưởng thức những tác phẩm như thế này, thời gian dường như dừng lại, chúng ta sẽ nhận ra vẻ đẹp trong những tạo vật của Chúa và hiểu được rằng nền văn minh của chúng ta chỉ là một phần nhỏ trong thế giới rộng lớn hơn.

Vasari đã trích dẫn những lời trăn trối nổi tiếng của Leonardo da Vinci trong cuốn "Cuộc đời của những họa sĩ, nhà điêu khắc và kiến ​​trúc sư xuất sắc nhất": "Tôi đã xúc phạm Chúa và nhân loại, bởi vì các tác phẩm của tôi chưa đạt đến chất lượng như mong muốn."

Bức tranh “Cái chết của Leonardo da Vinci” được hoàn thành vào năm 1818 bởi họa sĩ Jean-Auguste-Dominique Ingres. Trong bức tranh này, Leonardo da Vinci chết trong vòng tay của vua Francis I của nước Pháp một cách khiêm tốn sau khi kết thúc một cuộc đời với những thành tựu phi thường. (Ảnh thuộc miền công cộng)

Mặc dù chúng ta không thể chứng minh được rằng Leonardo Da Vinci có thực sự nói những lời này trước khi chết hay không, nhưng câu nói của Vasari đã trở thành biểu tượng cho khát vọng của các nghệ sĩ thời kỳ Phục hưng. Đó là những người theo đuổi những giá trị lớn hơn cả bản thân họ - tôn vinh sự sáng tạo của Chúa.

(Bài gốc ”The Italian Renaissance: To the Glory of God or Man? đã được xuất bản bằng tiếng Anh "Epoch Times").

Giới thiệu về tác giả: Johanna Schwaiger là nhà điêu khắc và giám đốc chương trình tại New Masters Academy.

Johanna Schwaiger - Epoch Times
Đức Nhân biên dịch



BÀI CHỌN LỌC

Văn nghệ Phục hưng tôn vinh Chúa hay văn minh nhân loại?