Gió mây khó lường (3): Những cơn gió lạ thay đổi lịch sử

Giúp NTDVN sửa lỗi

Trong lịch sử đã nhiều lần xảy ra một cơn gió mạnh làm thay đổi cục diện một cuộc chiến. Trong nhiều cuốn sách lịch sử, nếu để ý kỹ, sẽ thấy rất nhiều ví dụ như vậy.

(Trích thuật: Tháng 12 năm Kiến An thứ 13, trong trận quyết chiến giữa 5 vạn liên quân Tôn-Lưu với đại quân 83 vạn binh mã của Tào Tháo, một cơn gió đông nam thổi vào giữa mùa đông lạnh giá, đốt cháy chiến thuyền của Tào Tháo. Trận chiến này là một trận chiến quyết định, với sự chênh lệch lực lượng rất lớn, chiến thắng của liên quân Tôn-Lưu đã viết lại tiến trình lịch sử và định đoạt cục diện Tam Quốc. Đây chỉ là một trường hợp đặc biệt thôi sao?)

Cuồng phong cát bụi cứu Lưu Bang

Chúng ta nói về một ví dụ khác, chuyện xảy ra vào năm thứ hai của nhà Hán, khi cuộc chiến tranh Sở-Hán đang diễn ra, Lưu Bang và Hạng Vũ tranh giành thiên hạ. Cuộc chiến này diễn ra ở Bành Thành, nay là thành phố Từ Châu, tỉnh Giang Tô. Bành Thành vốn là kinh đô của Hạng Vũ, Hạng Vũ sau này đi đánh người khác, còn Lưu Bang dẫn liên quân các nước và chư hầu đi đánh Bành Thành.

Lúc đó quân của Lưu Bang có tổng cộng 56 vạn, trong khi Hạng Vũ chỉ có 3 vạn quân. Khi Hạng Vũ nghe tin Bành Thành bị tấn công, ông lập tức quay lại chiến đấu chống lại liên quân chư hầu. Hạng Vũ rất giỏi đánh trận, cho đến khi tự sát ở sông Ô Giang, ông chưa bao giờ bại trận. Chỉ cần Hạng Vũ xuất quân, nhất định sẽ thắng. Dù thắng nhiều trận nhưng quân đội của ông ngày càng yếu đi vì quá say mê bạo lực, chuyện này chúng ta sẽ nói sau.

Hạng Vũ lần đầu tiên đánh trận với Lưu Bang, mặc dù có 3 vạn quân và Lưu Bang có 56 vạn người, nhưng Hạng Vũ đã giết mười mấy vạn quân Lưu Bang trong trận chiến đầu tiên. Trận thứ hai cũng giết chết hơn 10 vạn. Sau này Hạng Vũ áp sát Bành Thành quyết chiến Lưu Bang. Quân của Lưu Bang sắp bị quét sạch, không thể chống cự nổi. Với sự dũng mãnh của Hạng Vũ, việc bắt được Lưu Bang chẳng khác gì lấy đồ trong túi.

Vào thời khắc ngàn cân treo sợi tóc này, theo ghi chép trong “Sử ký - Hạng Vũ bản kỷ” thì: “Có một trận cuồng phong từ hướng Tây Bắc thổi đến, cây gãy mái tung, cát sỏi bụi mù, ngày tối như đêm, nhằm thẳng vào quân Sở, quân Sở đại loạn, tan tác, Hán vương liền mang theo mấy chục kỵ binh trốn thoát”.

Một cơn gió mạnh chợt nổi lên khiến trời đất tối tăm, khiến ngày như đêm, đồng thời cơn gió này thổi thẳng vào quân Hạng Vũ. Gió mạnh đến nỗi quân của Hạng Vũ không thể mở mắt được. Thế là Hán vương cuối cùng bỏ chạy chỉ với vài chục người. Nếu lúc đó Hạng Vũ bắt được Lưu Bang thì Trung Quốc sẽ là một cảnh tượng khác. Lưu Bang trốn thoát, sau này lập nên nhà Hán kéo dài bốn trăm năm.

Cơn gió trái mùa cứu Chu Nguyên Chương

Câu chuyện thứ ba về gió mạnh xảy ra vào cuối thời nhà Nguyên đầu thời nhà Minh. Cuộc chiến này trong lịch sử được gọi là "Trận chiến hồ Bà Dương". Đó là cuộc chiến giữa Chu Nguyên Chương và Trần Hữu Lượng. Chúng ta biết rằng vào thời nhà Nguyên, người Mông Cổ thống trị thiên hạ. Vào cuối thời nhà Nguyên, nhiều nông dân nổi dậy tạo phản, họ đều là người Hán. Một điều họ biết rất rõ là giang sơn của quân Mông Cổ đã hỏng rồi. Ai cuối cùng có thể chiến thắng trong nhóm nổi dậy này sẽ là hoàng đế tương lai.

Như vậy bạn sẽ thấy những đội quân nổi dậy này thường không chiến đấu chống lại nhà Nguyên mà là chống lại nhau. Lúc bấy giờ có rất nhiều đội nông dân khởi nghĩa, đó là thời kỳ loạn thế anh hùng. Vì vậy, lúc bấy giờ có rất nhiều đội nông dân khởi nghĩa như Trần Hữu Lượng, Trương Sĩ Thành, Phương Quốc Trân, Lưu Phúc Thông, Hàn Sơn Đồng, Chu Nguyên Chương, v.v. Khi đó thế lực lớn nhất lúc bấy giờ chính là Trần Hữu Lượng.

Trần Hữu Lượng lúc bấy giờ đã chiếm đóng ba tỉnh Hồ Bắc, Hồ Nam và Giang Tây. Chỗ ở của Chu Nguyên Chương lúc đó nằm ở Nam Kinh, tỉnh Giang Tô ngày nay. Còn Trương Sĩ Thành ở Tô Châu. Đây là ba đội quân khởi nghĩa nông dân lớn nhất. Vào năm Chí Chính thứ 20 của nhà Nguyên, tức là năm 1360, một cuộc chiến nổ ra giữa Chu Nguyên Chương và Trần Hữu Lượng. Binh lực của Chu Nguyên Chương thực sự là có hạn, nhưng ông đã sử dụng một số mưu kế trong cuộc chiến này và đánh bại Trần Hữu Lượng.

Năm 1363, một trận quyết chiến giữa Chu Nguyên Chương và Trần Hữu Lượng, diễn ra tại hồ Bà Dương. Trước trận chiến hồ Bà Dương, Trần Hữu Lượng có một viên tướng tên là Hồ Đình Thụy trấn giữ Hồng Đô, nay là thành phố Nam Xương, tỉnh Giang Tây. Tuy nhiên, Hồ Đình Thụy đã bị Chu Nguyên Chương xúi giục nổi dậy. Vì vậy Trần Hữu Lượng rất tức giận giống như người bị cướp mất quê hương, nên Trần Hữu Lượng đã dẫn 60 vạn quân binh tấn công Hồng Đô. Chu Nguyên Chương cử cháu trai của mình là Chu Văn Chính thủ thành. Hai bên giao chiến ba tháng liền. Một tòa thành cô độc, sáu mươi vạn quân tiến công, nhưng Trần Hữu Lượng không thể đánh bại được.

Đương nhiên, Hồng Đô cũng nguy ngập lắm rồi, lúc này Chu Nguyên Chương dẫn đại quân chủ lực, cũng chỉ hơn 10 vạn người đi cứu viện Nam Xương.

Trần Hữu Lượng rất tức giận khi nghe tin kẻ thù cũ của mình đang đến. Ông tập hợp toàn bộ quân đội và từ bỏ cuộc tấn công vào Hồng Đô, để quyết đấu với Chu Nguyên Chương. Quân của Trần Hữu Lượng từ Nam Xương tiến về phía bắc dọc theo hồ Bà Dương, và quân của Chu Nguyên Chương đi về phía nam dọc theo hồ Bà Dương, quân đội của hai bên gặp nhau. Chiến thuyền của Trần Hữu Lượng rất to lớn, khi Chu Nguyên Chương nhìn thấy thuyền của Trần Hữu Lượng, cảm thấy rất sợ hãi.

Tập đầu tiên của " Minh sử" viết: "Quân binh của Hữu Lượng lên tới 60 vạn người, thuyền lớn kết bè dàn trận, đài quan sát cao hơn mười trượng, trải dài chục dặm, giáo khiên cờ phướn trông như núi”. Thuyền của Chu Nguyên Chương rất nhỏ, Trần Hữu Lượng có thể không cần đánh trận, chỉ dùng thuyền lớn đâm vào thuyền của Chu Nguyên Chương là có thể đánh chìm tất cả.

Cuộc chiến này là cuộc chiến quyết định tương lai, vận mệnh của Chu Nguyên Chương và Trần Hữu Lượng, người thắng sẽ được thiên hạ, kẻ thua sẽ chẳng còn gì. Bởi vì cả hai đều dốc hết toàn bộ vốn liếng ra rồi. Trần Hữu Lượng có 60 vạn quân, Chu Nguyên Chương có hơn 10 vạn, lại thêm vũ khí của Chu Nguyên Chương khá có vấn đề.

Khi hai bên giao tranh trong ba ngày đầu tiên, Chu Nguyên Chương đã không chiếm được lợi thế. Hơn nữa, vào ngày đầu tiên, Chu Nguyên Chương suýt bị giết bởi một viên tướng địch tên là Trương Định Biên. Trận chiến ngày thứ ba, Chu Nguyên Chương bị tổn thất rất nặng nề, Trần Hữu Lượng đương nhiên cũng tổn thất không ít người, nhưng vấn đề là Chu Nguyên Chương không có vốn, thắng người một vạn thì mình cũng tổn thất tám nghìn. Đối phương có 60 vạn, Chu Nguyên Chương chỉ có hơn 10 vạn, cho dù ở đây toàn bộ quân bị đánh bại, cũng không thể tiêu diệt toàn bộ quân của đối phương.

Đến ngày thứ tư, Chu Nguyên Chương không còn cầm cự được nữa, một viên tướng tên Quách Hưng nói với Chu Nguyên Chương: “Thực lực hai bên chênh lệch quá lớn, cách duy nhất để chúng ta giành chiến thắng là đốt cháy toàn bộ chiến thuyền của Trần Hữu Lượng”.

Chu Nguyên Chương nói đây là một ý kiến ​​hay. Lập tức cho chuẩn bị một số thuyền nhỏ, chứa đầy dầu trên phủ lau sậy khô. Tuy nhiên, ông gặp phải vấn đề tương tự như Chu Du - không có gió. Nếu gió không thổi về hướng Trần Hữu Lượng, thì chỉ có thể liều chết quyết tử. Cuộc chiến thật tàn khốc, khi tấn công thuyền của Trần Hữu Lượng, giống như việc trèo lên tường thành, gọi là ngửa mặt đánh lên “ngưỡng công bất lợi”, "Minh sử" ghi lại rằng "chư tướng lộ vẻ sợ hãi”, mọi người đều sợ hãi.

Chu Nguyên Chương đích thân cầm kiếm, đứng trên mũi thuyền đốc chiến, tự tay giết chết nhiều người để thị uy. Tất nhiên, đó đều là người của ông. Ông thúc tướng quân xông lên, tướng nào lùi bước, Chu Nguyên Chương liền giết, giết chết hơn chục người. Nếu lúc này không có gió, Chu Nguyên Chương sẽ xong đời.

Nhưng vào thời điểm này, theo ghi chép trong “Minh sử” là giờ Thân, khoảng từ ba đến năm giờ chiều, gió đột nhiên nổi lên, cơn gió này thổi về hướng quân của Trần Hữu Lượng. Chu Nguyên Chương nhìn thoáng qua và nhận ra rằng đây là thời cơ ngàn năm có một để ‘thừa phong túng hỏa’ (nhờ gió đốt lửa). Trần Hữu Lượng đã mắc sai lầm y hệt như Tào Tháo khi xưa. Chắc hẳn ông ta chưa bao giờ xem "Tam Quốc Diễn Nghĩa", nên đã nối các con tàu của mình bằng dây xích sắt. Vì vậy, với ngọn lửa này, đã thiêu chết hơn chục vạn quân cùng nhiều chiến thuyền của Trần Hữu Lượng. Chu Nguyên Chương đã giành được chiến thắng gần như quyết định.

undefined
Bức tranh "Minh Tổ Bà Dương diệt Hữu Lượng". (Miền công cộng)

Tuy mất hơn chục vạn quân nhưng Trần Hữu Lượng vốn liếng còn nhiều. Ngay tối hôm ấy, Trần Hữu Lượng nói: “Ta vẫn còn một cách để giải quyết Chu Nguyên Chương”.

Trong số tất cả các thuyền của Chu Nguyên Chương, chỉ có chiếc nơi Chu Nguyên Chương đang ở là có cột buồm màu trắng. Bởi vì nó là thuyền chỉ huy nên cần có ký hiệu khác với những thuyền khác. Trần Hữu Lượng cho rằng thuyền có cột buồm màu trắng là của Chu Nguyên Chương, nếu ngày mai chúng ta muốn tiêu diệt được quân địch thì chúng ta phải tiêu diệt được Chu Nguyên Chương, vì vậy ngày mai chúng ta sẽ tập trung toàn bộ lực lượng để tấn công con thuyền có cột buồm màu trắng. Mọi thứ đã được bố trí xong.

Đêm đó Chu Nguyên Chương cũng cho mở cuộc họp bàn. Chu Nguyên Chương nói: “Ta muốn nói với các vị một chuyện, tối nay nhất định phải làm xong. Sơn tất cả cột buồm của chúng ta thành màu trắng”.

Vì vậy, khi trận chiến xảy ra vào ngày hôm sau, Trần Hữu Lượng đã đứng ngây ra khi nhìn thấy cột buồm của quân Chu Nguyên Chương toàn màu trắng. Toàn bộ phòng tuyến tâm lý đã bị sụp đổ. Trần Hữu Lượng lại thất bại trong trận chiến quyết định thứ hai.

Hai bên giằng co khoảng một tháng, bên Trần Hữu Lượng đã cạn kiệt lương thực. Trần Hữu Lượng là một kẻ rất bạo ngược, các tướng lĩnh của ông ta lần lượt đào tẩu, cuối cùng Trần Hữu Lượng không thể chiến đấu được nữa, đành quyết định phá vây.

Chúng ta biết rằng hồ Bà Dương giống như một cái túi, phía nam rộng, phía bắc hẹp. Sau đó Chu Nguyên Chương dùng thuyền phong tỏa toàn bộ cửa hồ. Vì vậy, khi Trần Hữu Lượng phá vây đã đụng phải hàng phòng ngự của Chu Nguyên Chương chờ sẵn. Trong trận chiến, một mũi tên lạc đã bắn trúng Trần Hữu Lượng, trúng mắt và xuyên qua đầu. Nhân vật kiêu hùng một thủa đã chết như vậy. Ai đã bắn mũi tên đó? Không ai biết, trong cuốn "Minh sử" không có ghi chép nào cả.

Trận chiến này đã đánh bại hoàn toàn quân đội của Trần Hữu Lượng , giúp Chu Nguyên Chương trở thành vị hoàng đế sáng lập nhà Minh sau này. Nếu trận gió đó chỉ chậm lại một canh giờ, thì Chu Nguyên Chương có lẽ sẽ không chống cự nổi.

(Chu Nguyên Chương lên ngôi hoàng đế vào năm 1368, kiến lập nhà Minh, niên hiệu Hồng Vũ).

Nói thêm: Miếu hiệu, thụy hiệu và niên hiệu của các Hoàng Đế

Đến đây tôi xin nói về cách gọi của các vị hoàng đế ngày xưa. Bởi vì khi đọc sử sách, danh vị của hoàng đế thường tương đối phức tạp. Trong quá khứ, hoàng đế có ba danh xưng – miếu hiệu, thụy hiệu và niên hiệu. Đây là quan hệ gì? Hoàng đế sau khi băng hà, họ muốn đặt bài vị vào trong tông miếu (miếu thờ tổ tông). Trong tông miếu phải đặt tên, gọi là Miếu hiệu. Nên miếu hiệu mới thường có chữ ‘Tổ’, chữ ‘Tông’. Nói chung, ‘kiến công viết tổ, kiến đức viết tông’ (có nghĩa là do kiến công lập đức cho đất nước, nên được gọi là tổ tông). Như Thái Tổ là chỉ người sáng lập đất nước, còn kiến đức gọi là Tông, nên khi chúng ta nghe thấy chữ Tổ, Tông, là thuộc về miếu hiệu của hoàng đế trong đền thờ tổ tiên.

Còn một xưng hiệu khác, gọi là Thụy hiệu, sau khi hoàng đế qua đời, làm bản tổng kết hành vi một đời của hoàng đế. Kết quả của bản tổng kết này gọi là Thụy hiệu. Ví dụ, Hoàng đế Hán Vũ Đế, chữ “Vũ" là Thụy hiệu của ông, vì ông đã mở rộng đáng kể lãnh thổ của vương triều nhà Hán nên được gọi là Vũ Đế. Vì vậy, tên đầy đủ của Hán Vũ Đế thực ra phải là "Thế Tông Hiếu Vũ Hoàng Đế". Thế Tông là Miếu hiệu của ông, còn Hiếu Vũ là Thụy hiệu. Trước thời nhà Đường ở Trung Quốc, thường gọi hoàng đế bằng Thụy hiệu. Khi bạn nghe thấy chữ Đế, đó là Thụy hiệu, chẳng hạn như Hán Vũ Đế, Ngụy Vũ Đế, Ngụy Văn Đế, Tùy Dương Đế, Hán Tuyên Đế, đều là Thụy hiệu.

Tới thời nhà Đường, khi xưng hô hoàng đế, thường bắt đầu được gọi bằng Miếu hiệu, chẳng hạn như Đường Cao Tổ, Đường Thái Tông, Đường Huyền Tông, Tống Thái Tổ, Tống Nhân Tông, v.v.

Vào thời nhà Minh và nhà Thanh có sự thay đổi, Trung Quốc bắt đầu để lại một truyền thống từ thời Hán Vũ Đế, đó là khi mỗi vị hoàng đế lên ngôi đều phải thay đổi niên hiệu. Niên hiệu đầu tiên của Trung Quốc do Hán Vũ Đế đặt ra và được gọi là Kiến Nguyên. Một số hoàng đế có nhiều niên hiệu, chẳng hạn như Hán Vũ Đế có rất nhiều niên hiệu. Ví dụ, Đường Huyền Tông có hai niên hiệu, một là Khai Nguyên, một là Thiên Bảo, đều có niên hiệu khác nhau, từ đó mới tính được số năm ông làm hoàng đế.

Trước thời nhà Minh, các hoàng đế có thể có nhiều niên hiệu, nhưng vào giữa và cuối thời nhà Minh, đặc biệt là nhà Thanh, về cơ bản mỗi hoàng đế chỉ có một niên hiệu, sau khi lên ngôi và thay đổi niên hiệu đầu tiên thì giữ niên hiệu đó không thay đổi. Vì vậy, sau thời nhà Minh và nhà Thanh, hoàng đế thường được gọi bằng tên niên hiệu. Ví dụ, khi chúng ta nói Hoàng đế Khang Hy, Khang Hy là niên hiệu, được gọi là năm Khang Hy thứ nhất, năm Khang Hy thứ hai, cứ như vậy tiếp tục. Vì vậy vào thời nhà Minh và nhà Thanh, hoàng đế được gọi bằng niên hiệu.

(Còn tiếp)

Chương Thiên Lượng - NTD
Thái Bình biên dịch từ:

Chương trình lịch sử quy mô lớn của Đài truyền hình NTD (Tân Đường Nhân) "Tiếu đàm phong vân" do Giáo sư Chương Thiên Lượng chủ trì: Tập 1 - Gió mây khó lường (3)

Văn hoá Lịch sử


BÀI CHỌN LỌC

Gió mây khó lường (3): Những cơn gió lạ thay đổi lịch sử