Tinh hoa xử thế (Kỳ 3): Khoan dung là phẩm đức lớn nhất của người quân tử

Giúp NTDVN sửa lỗi

Có thể khoan dung, độ lượng mà đối đãi với khuyết điểm của kẻ khác chính là hình mẫu của người có hàm dưỡng, tu dưỡng.

Trong cuộc đời này, thật hiếm tìm được người nào "thập toàn thập mĩ", bởi ai cũng có chỗ khuyết thiếu, sai lầm. Và bởi ai cũng có thể mắc sai lầm nên sự khoan dung là điều cần thiết để duy trì một mối quan hệ lành mạnh, không độc hại. Không thể khoan dung với người khác, luôn đổ lỗi cho người khác trong khi chỉ thấy mình đúng đắn, đó là con đường dẫn đến những nhân duyên bất hảo, thậm chí chuốc oán gây thù.

Tử Cống một lần hỏi thầy rằng:

- Thưa thầy! Chữ nào có thể làm khuôn mẫu trong nguyên tắc ứng xử của người ta?

Khổng Tử điềm nhiên trả lời:

- Chính là chữ “Thứ”, là ý khoan dung, độ lượng vậy.

Xưa nay, phàm là bậc chính nhân quân tử, hành sự trước sau đều nghĩ cho người, đều vì đại cục mà không xét đến được mất của cá nhân, không vướng lụy vào cảm xúc nhất thời. Tha thứ là một cảnh giới phân biệt rõ quân tử và tiểu nhân. Kẻ tiểu nhân bụng dạ hẹp hòi, không dễ bỏ qua cho người khác. Người quân tử tấm lòng rộng rãi, nhãn quang thản đãng, không chấp nhặt chuyện nhỏ đã qua. Lần giở lại những câu chuyện trong sử cũ, ta sẽ thấy rõ được điều đó.

Tống Tựu, nước Lương, làm Lệnh doãn một huyện gần biên thuỳ với nước Sở. Hai nước láng giềng tuy không xảy ra chiến tranh nhưng cũng không ưa gì nhau. Ngoài diễn tập, đóng doanh lập trại, quân lính hai bên vẫn thường trồng thêm rau dưa để lấy thực phẩm. Quân Lương chăm chỉ trồng tưới nên dưa luôn tươi tốt, quả ngọt. Người Sở lười hơn nên dưa vừa xấu vừa mắc sâu bọ nhiều.

Lệnh doãn huyện biên thùy nước Sở thấy vậy bèn lấy làm ghen tức lắm, ngầm sai quân lính hằng đêm lẻn sang cào vỏ dưa, làm ruộng dưa của quân Lương cứ chết héo dần. Sau, quân Lương biết được căm hận lắm, tìm đến Tống Tựu thưa:

- Quân Sở ngang nhiên sang phá hoại ruộng dưa của chúng ta. Xin Lệnh doãn ra lệnh, ngay đêm nay chúng tôi sẽ sang phá ruộng của chúng mới bõ được cái hận này.

Tống Tựu điềm tĩnh nói:

- Không nên, không nên! Gây thù chuốc oán, chỉ chuốc lấy tai vạ thôi. Nay ta lệnh cho các ngươi hằng đêm phải sang ruộng tưới dưa cho quân Sở nhưng cũng phải bí mật mà làm, chớ để cho người ta biết.

Quân Lương nghe xong ngơ ngác chẳng hiểu gì nhưng cũng đành phải tuân mệnh.

Sau nửa tháng, ruộng dưa bên Sở mỗi lúc một tươi tốt. Quân Sở lấy làm lạ, cắt cử người canh gác mỗi đêm, phát hiện ra quân Lương thường lựa lúc canh khuya giờ Tí gồng gánh nước sang cẩn thận tưới tắm cho ruộng dưa của mình, đêm nào cũng như vậy. Lệnh doãn nước Sở nghe được việc ấy, lấy làm hổ thẹn trong lòng, dâng tấu lên Sở vương. Sở vương biết chuyện cũng vô cùng hổ thẹn, lập tức sai sứ mang lễ vật sang nước Lương tạ tội và muốn kết tình đồng minh lâu dài. Vua Lương ưng thuận. Hai nước vì thế mà kết tình giao hảo dài lâu với nhau.

Trong lịch sử cổ kim, những trường hợp “lấy đức báo oán” như vậy không hề hiếm gặp. Thời nhà Trần ở Việt Nam, xung đột và mâu thuẫn trong chính nội tộc luôn được hóa giải kỳ diệu bằng những biện pháp khoan dung, mềm dẻo vô cùng. Chiêu Minh vương Trần Quang Khải là con của Thái Tông hoàng đế Trần Cảnh. Xét về ngành thứ, ông là em họ của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn. Tuy nhiên, vì hiềm khích từ đời cha (vụ Trần Cảnh lấy vợ của Trần Liễu) nên hai anh em cũng dè chừng, ít quan hệ đi lại với nhau.

Một lần, Quốc Tuấn từ Vạn Kiếp (thuộc Hải Dương ngày nay) tới thăm. Quang Khải xuống thuyền yến ẩm, chuyện trò suốt cả ngày. Vốn biết Quang Khải rất sợ tắm, Quốc Tuấn mới đùa: “Mình mảy cáu bẩn, xin được tắm giùm”. Thế là Quốc Tuấn cởi áo Quang Khải ra, tắm cho ông bằng nước thơm, vừa tắm vừa nói: “Hôm nay mới được tắm cho Thượng tướng”. Quang Khải vừa bất ngờ, vừa cảm phục cũng đáp lại: “Hôm nay cũng mới được Quốc công tắm rửa cho”. Từ đó, hai người xoá bỏ mọi nghi kỵ, thường đi lại thân thiết với nhau, tình như thủ túc.

Trong 3 lần kháng Nguyên, thế địch như vũ bão, không phải không có lúc quan quân nhà Trần nao lòng, núng thế. Nhiều quý tộc nhà Trần đã từng viết thư xin hàng Thoát Hoan khi thấy thế giặc mạnh như chẻ tre còn quân Đại Việt bị dồn vào thế cùng. Thượng Hoàng Trần Thánh Tông và vua Trần Nhân Tông đều là những minh quân, dù nắm mười mươi trong tay bằng chứng phản nghịch của nhiều khanh tướng, tôn thất nhưng họ vẫn coi như không biết. Thậm chí các vua Trần còn sai người đốt sạch thư tín, giấy tờ qua lại giữa các quý tộc nhà Trần và quân Nguyên, coi như chuyện cũ không truy cứu đến. Những kẻ từng mang tâm cơ phản nghịch bỗng được xóa sạch tội danh, giữ vẹn toàn được lòng trung trinh, sau này có rất nhiều người đã âm thầm lấy công chuộc tội, lập nhiều chiến tích vẻ vang cho nhà Trần. Cách hành xử đầy bao dung, khoan nhượng ấy thực chỉ có bậc quân tử, vĩ nhân mới làm được vậy.

Trong “Đạo Đức Kinh” (chương 63, Tư Thủy), Lão Tử viết: “Vi vô vi, sự vô sự, vị vô vị. Đại tiểu, đa thiểu, báo oán dĩ đức”.

Có thể tạm hiểu là: “Thánh nhân trị thiên hạ bằng vô vi, thi hành theo nguyên tắc vô sự, giữ thái độ điềm đạm, xem cái nhỏ như cái lớn, cái ít như cái nhiều, lấy đức mà báo oán”.

Đạo khoan dung là một trong những trụ cột lớn của văn hóa Á Đông. Khoan dung cũng là một phẩm chất không thể thiếu của người quân tử. Kẻ tiểu nhân chỉ so đo món lợi nhỏ, người quân tử thì tấm lòng thản đãng, chí hướng cao xa. Kẻ tiểu nhân cũng không nhường người một tấc, người quân tử khoan dung, hòa hoãn, nhận phần thiệt về mình. Ở đời có ai lại muốn mình trở thành kẻ tiểu nhân chăng?

Khoan thứ với người, nghiêm khắc với mình

Phạm Thuần Nhân (con trai thứ 2 của Phạm Trọng Yêm, một nhà văn nổi tiếng trong lịch sử Trung Hoa) là một học giả đồng thời cũng là một nhà chính trị lỗi lạc thời đại nhà Tống của Trung Quốc. Ông thường xuyên nhắc nhở các con mình rằng: “Dù là kẻ ngu dốt nhất, người ấy cũng có thể là hết sức sáng suốt khi quở trách người khác. Còn người thông minh cực kỳ cũng có thể vô cùng hồ đồ trong lúc tự tha thứ cho lỗi lầm của bản thân mình. Vì vậy, nếu các con có thể tự xét tìm những lỗi lầm của bản thân như khi phán xét lỗi lầm của người khác, và khoan dung cho người khác như khi tha thứ cho chính bản thân mình, thì các con chắc chắn có thể trở thành bậc Thánh hiền”.

Cổ nhân luôn nhắc nhở rằng, đối nhân xử thế cần phải “Nghiêm khắc với chính mình, khoan dung với người khác”, nhưng muốn làm được như thế thật không dễ dàng. Lý do là bởi con người ta thường "hướng ngoại", nhìn thấy chỗ quấy của người khác thì dễ mà tìm ra điểm sai của mình lại rất khó.

Cũng như một câu ca dao Việt Nam từng nói: "Chân mình còn lấm mê mê/ Lại đi cầm đuốc mà rê chân người".

Người ta thường dễ chiều chuộng bản thân, dễ bỏ qua những sai lầm đôi khi nghiêm trọng của mình. Cái "vị tư" ấy hầu như không ai không có, chỉ là nhiều ít khác nhau ở từng người và từng trình độ tu dưỡng mà thôi.

Bởi thế Phạm Thuần Nhân mới nhắc nhở học trò rằng, mấu chốt để trở thành người đức lớn là cần phải: “Trách người khác với cái tâm khi tự trách mình, khoan thứ cho mình với cái tâm khi tha thứ cho người khác”.

Người quân tử luôn đối xử nghiêm khắc như vậy với bản thân mình. Nếu có nhìn thấy sai lầm của người khác thì âu cũng là lúc để tự nhìn nhận, soi chiếu lại bản thân, quay vào nội tâm của mình để tu sửa những sai sót. Nếu có thể làm được vậy thì con đường thăng hoa đức hạnh đã rất gần rồi!

Hãy quay lại dòng lịch sử để tìm hiểu những tấm gương bác ái, khoan dung như thế. Hoàng đế Khang Hy là một quân chủ nổi tiếng thời trung đại Trung Quốc. Lòng khoan dung, bác ái của ông đầu tiên biểu hiện ở việc ông thi hành chính sách nhân đức với bách tính. Trong sự nghiệp chính trị của Khang Hy, có thể thấy mọi tư tưởng và chính sách ông thực thi đều là yêu dân, thương xót dân, xem xét dân tình, làm lợi cho dân. Ông cho rằng, chỉ cần khiến bách tính được nghỉ ngơi an dưỡng, thì thời thái bình thịnh thế lý tưởng của ông sẽ xuất hiện. Ông nhiều lần ra lệnh dừng việc chiếm đất đai, miễn giảm thuế, đồng thời quy định “Thịnh thế tăng nhân đinh, vĩnh viễn không tăng thuế”. Sau này, Hoàng đế Ung Chính lại quy định “bỏ thuế đinh, chỉ thu thuế đất”, chính là nói, thuế đinh theo đầu người mấy ngàn năm qua ở Trung Quốc, đến đây được xóa bỏ.

Năm Khang Hy thứ 16 (1677), khi thị sát ngoài biên ải, có lần Hoàng đế Khang Hy trên đường đi tuần tra thấy có một người nằm bên đường. Chiểu theo quy định đương thời thì người này chính là ngăn cản Thánh giá, cần phải xử lý nghiêm khắc. Dù vậy, Hoàng đế Khang Hy lại nói là muốn hỏi xem có chuyện gì. Ông sai thị vệ đánh thức người nằm bên đường đó, hỏi họ tên anh ta. Thì ra người này là Vương Tứ Hải, là người làm thuê, đi xa làm thuê kiếm sống, trên đường trở về nhà, đói quá nên ngất đi. Khang Hy lập tức kêu thuộc hạ không được làm kinh động đến người đó, ông còn lệnh cho thuộc hạ đun cháo nóng cho anh ta ăn. Khang Hy còn tìm hiểu tình hình chi tiết, được biết gia cảnh anh ta rất khốn khó, thế là ông lệnh thuộc hạ đem cho anh ta một số tiền, và sai người đưa anh ta về tận nhà. Người xưa nói: “Chớ vì việc xấu nhỏ mà làm, chớ vì việc tốt nhỏ mà không làm“. Khang Hy yêu dân, bắt đầu từ những việc rất nhỏ. Qua đó cũng có thể nhìn ra phần nào đạo nhân ái của ông.

Khang Hy không chỉ thực hành chính sách nhân đức với bách tính, mà chính sách nhân đức này còn thể hiện ở việc ông thực hiện chính sách hình pháp. Năm Khang Hy thứ 22 (1683), số lượng phạm nhân “toàn quốc thu quyết” (xử tử hình) “còn chưa tới 40 người”. Đối với triều thần phạm pháp, Khang Hy cũng thực hiện chính sách hình pháp khoan hồng. Ngao Bái tội chết, nhưng chỉ xử tù giam. Sách Ngạch Đồ kết bè đảng mưu lợi cá nhân, cũng không xử tử hình. Dương Quang Tiên vu cáo người khác, cũng miễn tử hình.

Viên Minh

  • Mời quý độc giả theo dõi loạt bài dài kỳ "Tinh hoa xử thế" tại đây



BÀI CHỌN LỌC

Tinh hoa xử thế (Kỳ 3): Khoan dung là phẩm đức lớn nhất của người quân tử