Trong khi Mỹ chứng kiến lạm phát tăng trở lại, Trung Quốc tiếp tục giảm phát tồi tệ hơn

Giúp NTDVN sửa lỗi

Cùng trong một ngày, không có số liệu kinh tế nào được xem là tốt công bố bởi cả hai nền kinh tế lớn nhất, nhì toàn cầu là Mỹ và Trung Quốc. Trong khi lạm phát tăng trở lại sẽ buộc Cục dự trữ liên bang Hoa Kỳ chưa thể đảo chiều lãi suất thì Trung Quốc chìm trong giảm phát tồi tệ. Cả hai thái cực đều cực đoan và khiến tiêu dùng, đầu tư bị xói mòn trên diện rộng, mở ra cánh cửa bước vào năm 2024 đầy biến cố.

Chỉ vài giờ sau khi Hoa Kỳ công bố số liệu lạm phát không mấy khả quan khiến thị trường chứng khoán Phố Wall đỏ lửa, Trung Quốc công bố số liệu lạm phát của họ. Khác với Hoa Kỳ đang lo lắng lạm phát tăng cao hơn kỳ vọng thị trường, Trung Quốc còn lo hơn vì giảm phát kéo dài.

Giảm phát dai dẳng ở Trung Quốc

Hôm nay (12/1/2024), số liệu của Tổng cục Thống kê Trung Quốc cho thấy nền kinh tế lớn thứ hai thế giới đang chìm trong tháng thứ 3 giảm phát liên tiếp. Trong đó, chỉ số giá sản xuất công nghiệp còn giảm tháng thứ 15 liên tiếp.

Chỉ số giá tiêu dùng của Trung Quốc giảm 0,3% so với cùng kỳ năm ngoái trong tháng 12/2023, đánh dấu tháng giảm thứ ba liên tiếp, là chuỗi giảm dài nhất kể từ tháng 10/2009. Trong cấu phần chỉ số giá tiêu dùng của Bắc Kinh, chỉ số giảm mạnh nhất là giá lương thực; nhóm hàng hoá này là nguyên nhân chính kéo chỉ số giá tiêu dùng giảm. Do vậy, nếu không có giá lương thực và giá năng lượng, chỉ số CPI lõi tăng 0,6% so với cùng kỳ trong tháng 12, tương đương với mức tăng của hai tháng trước đó. So với đầu năm 2023, giá tiêu dùng tăng 0,2%, theo Trading Economics.

Nếu như các tháng trước, CPI vẫn tăng nhẹ so cùng kỳ khiến Trung Quốc hy vọng có thể kích thích kinh tế, thì trong 3 tháng trở lại đây, Trung Quốc chứng kiến sự sụt giám giá dai dẳng ở khu vực sản xuất đã lan sang tiêu dùng.

Giá sản xuất của Trung Quốc giảm 2,7% so với cùng kỳ vào tháng 12/2023, thấp hơn mức giảm 3,0% của tháng trước và so với ước tính của thị trường là giảm 2,6%. Đây là tháng thứ 15 liên tiếp xảy ra tình trạng giảm phát giá sản xuất. Tính cả năm 2023, giá sản xuất công nghiệp của Trung Quốc đã giảm 3%, đảo ngược mức tăng 4,1% vào năm 2022.

Trong khi Mỹ có thể tiếp tục giữ nguyên lãi suất cao hoặc tiếp tục tăng lãi suất nếu tình trạng tồi tệ hơn, thì Trung Quốc chỉ có một con đường là tiếp tục mở rộng hết mức chính sách tiền tệ đang nới lỏng của họ.

Nhưng rõ ràng, chính sách tiền tệ nới lỏng (giảm lãi suất, bơm tiền, cắt giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc) đã trơ lỳ với nền kinh tế; nó hoàn toàn không tạo ra tăng trưởng, mở rộng tiêu dùng và đầu tư.

Trong thực tế và lý thuyết, các giải pháp chữa giảm phát khó khăn hơn nhiều so với lạm phát. Để so sánh, chúng ta có thể dễ thấy rằng giảm phát khiến nền kinh tế lập tức phản ứng tiêu cực: giá tài sản giảm sút khiến người dân giảm tiêu dùng, doanh nghiệp thu hẹp sản xuất... Một cách đóng băng nền kinh tế. Trong khi đó lạm phát khiến người dân và doanh nghiệp chưa lập tức đóng băng, mà nó ngấm dần vào thói quen tiêu dùng và thu hẹp khả năng mở rộng sản xuất trong tương lai. Ngoài ra, khi nền kinh tế lạm phát, để tránh giá cả tăng trưởng nóng, chính sách tiền tệ thắt chặt (tăng lãi suất, tăng dự trữ, giảm cung tiền...) sẽ lập tức làm nền kinh tế lâm vào trạng thái "nguội" từ từ; giảm dần tiêu dùng, giảm đòn bảy, giảm dần đầu tư cho tới khi giá cả về mức hợp lý. Nhưng với nền kinh tế giảm phát, trạng thái kinh tế giống như "lạnh quá mức", thậm chí như không khí "bị đóng băng" về tiêu dùng, đầu tư, vì cầu lập tức suy giảm. Lúc này, chính sách tiền tệ, thậm chí là đầu tư công mở rộng, cũng không nhiều tác dụng hoặc có tác dụng rất chậm. Thậm chí, bẫy thanh khoản có thể xảy ra.

Những điều tệ hại mà giảm phát mang lại

Theo nghiên cứu của Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) [1], giảm phát được định nghĩa là sự sụt giảm giá cả, dẫn đến sự thay đổi tiêu cực của chỉ số giá trong một thời gian dài.

Có một số nguyên nhân sau dẫn đến giảm phát:

Thứ nhất, người tiêu dùng giảm chi tiêu bởi vì họ kỳ vọng giá sẽ tiếp tục giảm hoặc đơn giản là người tiêu dùng mất niềm tin vào môi trường kinh tế vĩ mô, họ tiết kiệm chi tiêu để đảm bảo an ninh kinh tế trong tương lai cho bản thân và gia đình. Điều này đặc biệt đúng khi tình trạng tiêu dùng trong nước suy yếu kèm theo thất nghiệp gia tăng.

Thứ hai, giảm phát xảy ra còn có nguyên nhân là dư cung hàng hoá trong một thời gian dài. Dư cung khiến hàng hoá tràn ngập thị trường, cạnh tranh không lành mạnh diễn ra khiến giá cả suy giảm. Nhưng cũng bởi thế, vòng luẩn quẩn lại diễn ra ở đây. Cầu yếu đi, tiêu dùng ít đi trong khi dư cung hàng hoá. Tình trạng này nếu cùng xảy ra thì giảm phát sẽ trở thành vấn đề khó vãn hồi hơn. Tình trạng giảm phát, bởi thế, xói mòn động lực, niềm tin đầu tư trong nền kinh tế thực. Điều này tác động tiêu cực trong tăng trưởng bền vững dài hạn.

Thứ ba, giảm phát thường diễn ra sau khi một thị trường tài sản bị đầu tư quá mức và vỡ bong bóng sau đó. Đây là điều đã xảy ra ở thị trường bất động sản (BĐS) Nhật Bản hồi thập kỷ 1990 và cả Trung Quốc ngày nay.

Thứ tư, giảm phát sẽ làm trầm trọng thêm khả năng trả nợ, xác suất vỡ nợ cao hơn. Nghiên cứu của ADB chỉ ra rằng những khó khăn của giảm phát có thể được tăng cường bởi sự phát triển trong hệ thống tài chính. Giảm phát có ảnh hưởng trái ngược nhau đến các chủ nợ và người mắc nợ, giống như lạm phát. Khi giá hàng hóa và dịch vụ giảm, giá trị thực của đồng tiền tăng lên theo số lượng hàng hóa và dịch vụ nó có thể mua. Do đó, giá trị thực của nợ và việc trả nợ tăng lên. Chi phí gia tăng đối với người mắc nợ có thể dẫn đến xác suất vỡ nợ cao hơn, đặc biệt là giá trị tài sản thế chấp sụp đổ, đe dọa sự lành mạnh của hệ thống tài chính và có thể cả khu vực doanh nghiệp. Điều này đặc biệt đúng khi nợ xấu của nền kinh tế đã lớn trước khi giảm phát.

Trong một kịch bản cả 4 nguyên nhân này đều tồn tại thì đầu tư sụp đổ, thất nghiệp gia tăng, rủi ro vỡ nợ và dòng tiền gửi tháo chạy khỏi ngân hàng là lớn. Vòng xoáy của giảm phát có thể làm trầm trọng thêm tình trạng khó khăn thanh khoản ở ngân hàng thương mại dẫn tới các đổ vỡ lớn hơn trong hệ thống tài chính.

Tại Trung Quốc, giảm phát xảy ra bởi cả 4 nguyên nhân này.

Thực tế ở Trung Quốc

Vấn đề là Trung Quốc đang xuất hiện cả 4 nguyên nhân thúc đẩy tình trạng giảm phát hiện nay. Cả 4 nguyên nhân đều tiêu cực và rõ nét.

Thứ nhất, người tiêu dùng Trung Quốc giảm chi tiêu vì cả hai lý do: kỳ vọng giá tiếp tục giảm cũng như bảo vệ an ninh kinh tế của bản thân và gia đình trong tương lai. Điều này dễ hiểu khi làn sóng thất nghiệp ở người trẻ gia tăng. Trung Quốc thậm chí không công bố số liệu thất nghiệp trong nhóm thanh niên (16-24 tuổi) kể từ tháng 8/2023 sau khi tỷ lệ này vượt qua con số 21%; một con số kỷ lục. Thêm vào đó, niềm tin vào tương lai suy giảm cũng như kỳ vọng giảm giá khiến người Trung Quốc chưa sẵn sàng bước vào thị trường BĐS nội địa; tâm lý chờ giảm giá đang làm suy yếu thêm khả năng sớm phục hồi của Bắc Kinh. Tiêu dùng nội địa suy yếu hơn khi một lượng lớn tiền của người Trung Quốc tháo chạy khỏi biên giới để tìm tới các thị trường BĐS như Singapore, Anh, các nền kinh tế thuộc Châu Âu và Mỹ.

Thứ hai, tình trạng dư cung trong một thời gian dài. Năm 2016-2017, Trung Quốc bắt đầu chương trình tái cải cách tổng cung. Một chương trình đưa ra với mục tiêu đóng cửa các doanh nghiệp đang sản xuất trong các ngành dư cung như nguyên vật liệu xây dựng (xi-măng, sắt thép...), đào tạo mới, đào tạo lại lực lượng lao động để chuyển đổi sang các ngành thiếu cung, có hàm lượng tri thức và công nghệ cao hơn như chất bán dẫn, chip... Tuy nhiên, chương trình này vừa khởi đầu thì Trung Quốc đã phải đối diện với cuộc chiến tranh thương mại do Tổng thống Donald Trump khởi xướng vào năm 2018. Các biện pháp đánh thuế nhắm vào hàng hoá dư cung của Trung Quốc khiến nước này khó khăn hơn. Cho tới nay, có thể khẳng định chương trình tái cải cách tổng cung của Trung Quốc chưa đạt được kết quả như mong muốn. Thêm vào đó, cung tiếp tục dư thừa trong suốt 3 năm thực thi chính sách "zero-Covid". Tiêu dùng suy yếu do thu nhập giảm, thất nghiệp tăng, niềm tin mất mát khiến tình trạng dư cung trở nền trầm trọng hơn.

Thứ ba, vỡ bong bóng thị trường BĐS. Đầu tư, đầu cơ quá mức trên thị trường BĐS khiến giá BĐS bị đẩy lên cao. Năm 2022, theo Numbeo, chỉ số giá BĐS/thu nhập của Trung Quốc bình quân đạt 38 lần. Con số này đã giảm còn 34 lần sau khi thị trường BĐS lao dốc. Nhưng thị trường BĐS đã vỡ bong bóng kèm theo làn sóng phá sản doanh nghiệp phát triển BĐS Trung Quốc trong suốt 2 năm vừa qua.

Thứ tư, làn sóng vỡ nợ doanh nghiệp và cá nhân trên thị trường tài chính phát triển (nhưng không được giám sát rủi ro đủ mức) làm trầm trọng thêm tình trạng giảm phát. Làn sóng này nguy hiểm vì Trung Quốc là một quốc gia nghiện tín dụng. Thêm vào đó, thị trường tài chính phát triển mạnh với cả hệ thống NHTM và các ngân hàng ngầm. Ngân hàng ngầm là các công ty tài chính, các quỹ cho cá nhân và doanh nghiệp vay nợ nhưng không bị giám sát như ngân hàng. Khu vực này là nơi cung cấp 1/3 vốn tín dụng cho nền kinh tế Trung Quốc.

Làn sóng vỡ nợ trái phiếu doanh nghiệp của các tập đoàn phát triển BĐS tư nhân Trung Quốc đang gây lo ngại cho các nhà đầu tư toàn cầu. Các doanh nghiệp BĐS hàng đầu Trung Quốc như Evergrande, Country Garden rồi đến những doanh nghiệp có doanh thu 100 tỷ nhân dân tệ như Powerlong Real Estate đều lần lượt tuyên bố phá sản. Vỡ nợ xảy ra không chỉ trên thị trường TPDN phát hành bằng đồng USD mà còn trên thị trường tài chính trong nước. Khả năng trả nợ suy giảm cùng với mức giảm phát như mô tả [lý thuyết kinh tế] ở trên.

Bên cạnh vỡ nợ doanh nghiệp, vỡ nợ tiêu dùng của người Trung Quốc tăng kỷ lục. Theo tòa án địa phương trên toàn Trung Quốc, tổng cộng 8,54 triệu người, hầu hết trong độ tuổi từ 18 đến 59, chính thức bị chính quyền đưa vào danh sách đen sau khi không thanh toán được mọi khoản vay từ thế chấp nhà đến các khoản vay kinh doanh.

Con số này tương đương với khoảng 1% người trưởng thành ở Trung Quốc trong độ tuổi lao động, tăng cao hơn nhiều so với 5,7 triệu người vỡ nợ vào đầu năm 2020 do lệnh phong tỏa do đại dịch và các hạn chế khác đã cản trở tăng trưởng kinh tế và thu nhập hộ gia đình bị giảm sút.

Số lượng người vỡ nợ tăng vọt sẽ làm tăng thêm khó khăn trong việc củng cố niềm tin của người tiêu dùng đối với Trung Quốc, nền kinh tế lớn thứ hai thế giới và là nguồn cầu quan trọng toàn cầu.

Theo luật pháp Trung Quốc, những người không trả được nợ khi được đưa vào danh sách đen sẽ bị chặn tham gia một loạt hoạt động kinh tế, bao gồm mua vé máy bay và thanh toán qua các ứng dụng di động như Alipay và WeChat Pay, điều này càng tạo thêm lực cản cho nền kinh tế đang bị ảnh hưởng bởi sự suy thoái của lĩnh vực BĐS và niềm tin của người tiêu dùng. Quá trình đưa vào danh sách đen được kích hoạt sau khi người đi vay bị các chủ nợ, chẳng hạn như ngân hàng, khởi kiện và sau đó bỏ lỡ thời hạn thanh toán tiếp theo.

Ngoài 4 nguyên nhân chính nêu trên, Trung Quốc không khác gì Nhật Bản hồi thập kỷ 1990 khi dân số già hoá, lực lượng lao động suy giảm.

Các phân tích về thực trạng kinh tế Trung Quốc đối chiếu với cơ sở lý thuyết kinh tế học cho thấy nền kinh tế này khó có thể "sửa chữa" tình trạng giảm phát. Trung Quốc có thể tiếp tục chìm sâu vào thất nghiệp, thu hẹp đầu tư, dòng vốn đảo chiều và người dân cố gắng không tiêu dùng, kèm theo làn sóng vỡ nợ gia tăng.

Bài toán "sửa chữa" tình trạng giảm phát tốt nhất là cải cách tổng cung đã được Trung Quốc thực hiện 5 năm trước cho tới nay vẫn thất bại. Đổi mới khoa học, công nghệ, sáng tạo là nền tảng của cải cách tổng cung. Tuy nhiên, đây không phải là điều dễ dàng với một nền kinh tế không có tự do tư tưởng. Sáng tạo vốn luôn dựa trên nền tảng tự do. Thêm vào đó, các kênh thu hút tri thức, công nghệ mới qua Hong Kong, doanh nghiệp nhà nước liên doanh với các tổ chức khoa học công nghệ ở nước ngoài hay kế hoạch Nghìn nhân tài (chi tiền cho các nhà khoa học nước ngoài nghiên cứu, chia sẻ nghiên cứu...) đã bị đối thủ của Trung Quốc nhận diện và kiểm soát chặt chẽ. [2]

Nhật Bản đã phải trả giá bằng 2 thập kỷ mất mát. Trung Quốc có thể phải trả giá nhiều hơn và chắc chắn sẽ không tồn tại cái gọi là "phép màu tăng trưởng Trung Quốc" trong vài thập kỷ tới.

Quang Nhật

TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1] Douglas H. Brooks Pilipinas F. Quising, Danger of Deflation, ADB, December 2022;

[2] https://www.ntdvn.net/trung-my-tran-chien-cuoi-cung-56162.html



BÀI CHỌN LỌC

Trong khi Mỹ chứng kiến lạm phát tăng trở lại, Trung Quốc tiếp tục giảm phát tồi tệ hơn