Bình luận: Áp thêm thuế đối với hàng nhập khẩu Trung Quốc có ý nghĩa gì với Mỹ

Giúp NTDVN sửa lỗi

Công chúng Mỹ ngày càng nhận thức được rằng việc tiếp tục làm giàu cho Trung Quốc thông qua việc chấp nhận sự tồn tại của các hành vi thương mại không công bằng có lẽ là thất bại chiến lược lớn nhất về chính sách đối ngoại và thương mại trong lịch sử Mỹ.

Bài bình luận

Vào ngày 14/5, chính quyền Biden đã công bố mức thuế mới và mức tăng thuế đối với một loạt hàng hóa nhập khẩu từ Trung Quốc. Các mức thuế này sẽ áp dụng cho lượng hàng nhập khẩu trị giá 18 tỷ USD từ Trung Quốc, so với mức thuế quan của cựu Tổng thống Donald Trump vốn áp dụng cho 300 tỷ USD hàng nhập khẩu.

Các mức thuế quan mới nhất bao gồm mức thuế cao hơn đối với chip máy tính, pin, thép, nhôm, các nguyên tố đất hiếm, vật tư y tế (bao gồm cả đồ bảo vệ cá nhân), cần cẩu cảng và xe điện (EV). Xe điện bị tăng thuế ở mức cao nhất, từ 27,5% lên 102,5%. Tổng thống Joe Biden đang giữ phần lớn mức thuế quan của chính quyền tiền nhiệm.

Tuy nhiên, Tổng thống Trump vẫn là người ủng hộ mạnh mẽ hơn đối với việc áp thuế lên hàng hóa Trung Quốc. Ngoài việc áp đặt thuế quan đối với phần lớn hơn giá trị thương mại tính bằng đồng USD, ông Trump đã phá vỡ khuôn mẫu về các cách tiếp cận thương mại tự do thuần túy trước đây với Trung Quốc. Thuế quan của ông thường được ấn định ở mức 25%, nhưng chúng vẫn thấp hơn mức thuế 60% được ông Trump đề xuất đối với tất cả hàng nhập khẩu của Trung Quốc và 10% đối với tất cả hàng nhập khẩu khác, đây là những chính sách có thể được áp dụng nếu ông Trump đắc cử Tổng thống vào thời gian tới.

Mức thuế quan cao hơn được áp dụng với hàng nhập khẩu chiến lược từ Trung Quốc vốn có giá thấp hơn giá của các công ty Mỹ, đôi khi thấp hơn chi phí sản xuất, một chiến lược để giành thị phần của một mặt hàng mà trong trường hợp khẩn cấp, chẳng hạn như đại dịch hoặc chiến tranh, sẽ khó hoặc không thể thay thế. Bất cứ lúc nào, sự độc quyền của Trung Quốc đối với một mặt hàng nhất định có thể dẫn đến mức giá độc quyền cao. Việc “bán phá giá” chiến lược của Trung Quốc vào thị trường Mỹ được coi là một hành vi thương mại không công bằng, làm tăng rủi ro kinh tế và an ninh quốc gia cho Hoa Kỳ.

Washington cũng chỉ trích chính quyền Trung Quốc vì vi phạm nhân quyền, chẳng hạn như việc nô lệ hóa mang tính diệt chủng đối với người Duy Ngô Nhĩ. Washington cũng chỉ trích Bắc Kinh vì đã không khuyến khích người dân Trung Quốc tiêu dùng nội địa nhiều hơn. Điều này sẽ cải thiện mức sống của người Trung Quốc và tăng nhu cầu nhập khẩu từ Hoa Kỳ, tạo ra việc làm cho người Mỹ.

Sau nhiều thập kỷ nhập khẩu giá rẻ, chủ yếu từ Trung Quốc, và dẫn đến quá trình phi công nghiệp hóa ở Hoa Kỳ, cử tri Hoa Kỳ nhìn chung ủng hộ lập trường cứng rắn hơn chống lại các chính sách thương mại không công bằng của chính quyền Trung Quốc. Chính sách cam kết thương mại tự do với Trung Quốc trước đây trong nỗ lực đưa nước này hướng tới nền dân chủ rõ ràng đã thất bại.

Khi Trung Quốc trở nên giàu có hơn, phần lớn thông qua thương mại với Hoa Kỳ và châu Âu, hành vi hiếu chiến của Bắc Kinh, đặc biệt là chống lại Hoa Kỳ và các đồng minh của Hoa Kỳ, chỉ ngày càng gia tăng. Sự hiếu chiến này bao gồm việc che đậy có thể đã dẫn đến đại dịch COVID-19, cuộc khủng hoảng fentanyl và các động thái nguy hiểm đối với máy bay không quân và tàu hải quân của Mỹ, điều có thể dẫn đến cái chết của quân nhân Hoa Kỳ. Kết quả là, công chúng Mỹ ngày càng nhận thức được rằng việc tiếp tục làm giàu cho kẻ thù nguy hiểm nhất của Mỹ thông qua việc chấp nhận sự tồn tại của các hành vi thương mại không công bằng có lẽ là thất bại chiến lược lớn nhất về chính sách đối ngoại và thương mại trong lịch sử Hoa Kỳ.

Chính quyền Trung Quốc đã phản ứng với các mức thuế mới của Hoa Kỳ bằng cách nói rằng chúng vi phạm các quy định của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Trung Quốc đã sử dụng WTO để được hưởng lợi từ các thị trường mở trên toàn thế giới, điều này đặt ra câu hỏi liệu WTO có thực sự là một tổ chức vì lợi ích toàn cầu hay không nếu nó đang bị một chế độ toàn trị và diệt chủng lợi dụng để tăng cường quyền lực của chính mình trong khi gây thiệt hại cho các nền dân chủ trên khắp thế giới.

Hai mối lo ngại chính về mức thuế mới của chính quyền Biden cũng đang xuất hiện trên các tờ báo kinh doanh. Đầu tiên, thuế quan có thể dẫn đến các mức thuế trả đũa do chính quyền Trung Quốc áp đặt đối với hàng hóa của Hoa Kỳ. Thứ hai, chúng có thể làm tăng lạm phát ở Hoa Kỳ, tại thời điểm mà lạm phát cuối cùng cũng đã giảm xuống mức có thể khiến Ngân hàng Dự trữ Liên bang giảm lãi suất.

Tuy nhiên, báo chí kinh doanh thường phục vụ cho các lợi ích riêng của họ cũng như hệ tư tưởng thương mại tự do, thứ mang lại lợi ích cho các nhà xuất khẩu lớn nhất của Hoa Kỳ sang Trung Quốc trong khi bỏ qua các doanh nghiệp nhỏ của Hoa Kỳ vốn thường bị tổn hại bởi hàng nhập khẩu của Trung Quốc. Các nhà xuất khẩu lớn cảnh báo về các mức thuế mới, thứ có thể kích động Bắc Kinh áp dụng thuế trả đũa và dẫn đến lạm phát đáng kể. Các nhà xuất khẩu sang Trung Quốc đưa ra lập luận như vậy cũng có thể đang muốn lấy lòng Bắc Kinh.

Những cơ chế tương tự cũng ảnh hưởng đến Liên minh châu Âu, nơi dự kiến sẽ tăng thuế đối với xe điện của Trung Quốc trong những tháng tới. Volkswagen, hãng có doanh số bán hàng lớn nhưng đang giảm dần ở Trung Quốc, đã phản đối thuế quan của EU đối với xe điện Trung Quốc.

Mặc dù thuế quan cứng rắn hơn đối với Trung Quốc là cần thiết, nhưng xét đến tình trạng kinh tế và chính trị hiện tại của nước này, thuế quan có thể được nới lỏng trong tương lai nếu Trung Quốc dân chủ hóa và giao dịch công bằng với các nước khác.

Một khi thuế quan được áp dụng và các ngành công nghiệp của Mỹ được xây dựng lại, thuế quan sẽ khó được dỡ bỏ về mặt chính trị. Điều này có thể tránh được nếu chính quyền Biden và Quốc hội đưa ra các điều khoản nhằm xóa bỏ thuế quan nếu Trung Quốc thay đổi. Điều đó có thể được coi là sự mơ tưởng, nhưng nó sẽ khuyến khích Bắc Kinh làm điều đúng đắn và nhắc nhở Trung Quốc rằng nguyên nhân của thuế quan không phải là do “chủ nghĩa bảo hộ” hay quan điểm chống Trung Quốc.

Bài viết chỉ phản ánh quan điểm của tác giả, không nhất định phản ánh quan điểm của NTD Việt Nam.

Theo The Epoch Times

Bảo Nguyên biên dịch

Tác giả Anders Corr có bằng cử nhân / thạc sĩ Khoa học chính trị tại Đại học Yale (2001) và bằng tiến sĩ Quản trị nhà nước tại Đại học Harvard (2008). Ông là chủ nhiệm của Corr Analytics Inc. - nhà xuất bản của The Journal of Political Risk (Tạp chí Rủi ro Chính trị). Ông Anders Corr đã thực hiện nhiều nghiên cứu sâu rộng ở Bắc Mỹ, châu Âu và châu Á; và là tác giả của cuốn sách "The Concentration of Power: Institutionalization, Hierarchy, and Hegemony" (Tập trung quyền lực: Thể chế hóa, Hệ thống cấp bậc, và Bá quyền) và cuốn sách "Great Powers, Grand Strategies: the New Game in the South China Sea" (Những quyền lực lớn, những chiến lược lớn: Trò chơi mới trên Biển Đông).



BÀI CHỌN LỌC

Bình luận: Áp thêm thuế đối với hàng nhập khẩu Trung Quốc có ý nghĩa gì với Mỹ