Lý thuyết mới về Ung thư vú và thể dục

Giúp NTDVN sửa lỗi

Nếu như có một bài thể dục mà có thể làm giảm nguy cơ của hầu hết các trường hợp ung thư vú thì sao nhỉ?

Dưới đây, tôi sẽ trình bày lý thuyết của mình (hiện chưa có trong y văn)

Tổng quan ngắn gọn về phân bố dịch tễ Ung thư vú

Cứ tám phụ nữ Hoa Kỳ thì có một người bị ảnh hưởng bởi Ung thư vú. Trong số gần 500.000 bệnh nhân ung thư vú trong một Nghiên cứu Phân tích thì có tới hơn 54% được chẩn đoán là có khối u ở góc phần tư trên, phía ngoài (phần tư “trên ngoài” - UO) của tuyến vú. [1]

Tuyến vú hình bán cầu, và góc phần tư "trên ngoài" chỉ chiếm 25% tổng thể tích tuyến vú. Ở tuyến vú bị xệ, tỷ lệ này thậm chí còn ít hơn, vì phần lớn khối tuyến vú xệ xuống nằm bên dưới đường núm vú.

Như vậy, các khối u vú xuất hiện nhiều nhất ở góc phần tư "trên ngoài" này, cao hơn sự phân bố ngẫu nhiên đến hơn 2 lần (54,3%/25%).

Các khối u vú ở góc phần tư "trên ngoài" thường có kết cục tốt hơn các khối u ở các khu vực khác của tuyến vú. [2] Các khối u vú ở phần dưới và giữa sẽ có kết quả tồi tệ hơn có khả năng là do chúng nằm ở khu vực khó dẫn lưu đến các bạch huyết nách, ngược lại, chúng dường như chủ yếu được dẫn lưu đến chuỗi bạch huyết bên trong vú. [3]

Bạch huyết chiếm một phần ba lượng dịch của cơ thể. Đó là hệ thống tuần hoàn một chiều, thu thập các chất cặn bã từ khắp cơ thể (chất cặn bã sinh ra từ quá trình trao đổi chất bình thường của tế bào) vào các hạch bạch huyết và vận chuyển nó dọc theo chuỗi bạch huyết. Cuối cùng, những chất cặn bã này sẽ được dồn lại trong Ống ngực để rồi được thải ra ngoài theo phân. Có thể nói, vú là một ngõ cụt của bạch huyết và một phần nguy cơ ung thư vú có thể là do các mảnh vụn của quá trình chuyển hóa tế bào khó có đường thoát ra ngoài.

Góc phần tư "trên ngoài" là phần có khả năng dẫn lưu đến chuỗi bạch huyết ở nách lớn nhất, [4] nơi dòng bạch huyết quanh tuyến vú lưu thông mạnh hơn những nơi khác, với khoảng 75% lưu lượng. Ưu điểm của nó là các mảnh vụn được dọn sạch nhanh hơn và ổn định hơn. Chuyển động của cánh tay có tác dụng bơm bạch huyết và do đó làm gia tăng lưu lượng thông qua chuỗi hạch bạch huyết nách giúp loại bỏ chất thải triệt để hơn. Ngược lại, các khu vực được dẫn lưu bởi chuỗi bên trong vú lại có nguy cơ tiến triển đến ung thư giai đoạn muộn cao hơn. [5]

Tại sao hầu hết khối u xuất hiện ở góc "trên ngoài" của tuyến vú?

Vú bao gồm khoảng 50% đến 70% chất béo và 30% đến 50% mô tuyến. [6] Đến thời kỳ trước khi mãn kinh, tỷ lệ đó là khoảng 50-50, còn tới sau khi mãn kinh, mô tuyến dần dần được thay thế bằng mô mỡ.

Tỷ lệ ung thư vú chiếm ưu thế trong góc phần tư "trên ngoài" được cho là do mật độ cao của mô tuyến ở khu vực này. Mô tuyến phát triển và tăng sinh dưới ảnh hưởng của các hormone do buồng trứng tiết ra, [7] trong đó chủ yếu là estrogen, nhưng cũng có cả prolactin khi mang thai. Riêng với progesterone thì có ít ảnh hưởng hơn. Mô tuyến là nơi phát sinh hầu hết các ca ung thư vú.

Dư lượng các hóa chất độc hại, xâm nhập và tồn tại trong mô tuyến vú, bao gồm các hợp chất gây ung thư trong chất khử mùi nách, chất chống mồ hôi hoặc các loại mỹ phẩm thường được sử dụng cho khu vực này của cơ thể, [8] chúng có thể liên quan đến tỷ lệ mắc ung thư vú cao.

Paraben được sử dụng trong chất khử mùi để ngăn chặn sự phát triển của nấm, nấm men và vi khuẩn. [9] Các hợp chất paraben đã được tìm thấy nguyên vẹn trong cả mô vú bình thường lẫn mô ung thư [10] và đã cho thấy có tác dụng giống estrogen trên mô tuyến vú. [11]

Nhôm và muối nhôm là thành phần phổ biến trong các sản phẩm chống mồ hôi. Các hợp chất này đã được chứng minh là làm thay đổi tác động của estrogen lên các mô, giống như các kim loại khác trong nhóm metallo-estrogen. [12]

(BLACKDAY/Shutterstock)

Tại sao cần tập thể dục?

Bề mặt lớn nhất của mô tuyến vú, là mặt trong (sâu), phủ lên và tiếp xúc với cơ ngực lớn, có diện tích hơn 100 cm2 ở phụ nữ trưởng thành. Diện tích này lớn hơn một chút so với lòng bàn tay. Chỗ dày nhất của cơ ngực lớn và cơ ngực nhỏ dày chính là nằm ở phía sau phần tư "trên ngoài" của tuyến vú. Mô vú và cơ ngực chỉ được ngăn cách bởi một lớp cân ngực mỏng 0,3 mm. Chúng có diện tích bề mặt tương tác đáng kể. Tôi sẽ thảo luận về nó dưới đây.

Các động tác thể dục như: Chest Flies (ép ngực), Cable Chest Pull (kéo cáp), hay mức độ thấp hơn là đẩy tạ nằm (trên ghế băng) và chống đẩy, tất cả đều tác động đến cơ ngực.

Sự gắng sức của cơ tạo ra axit lactic. Axit lactic này, cùng với sự căng thẳng về thể chất khi tập thể dục, sẽ gây cảm giác đau nhức ở các cơ vận động, đặc biệt là trong một hoặc hai ngày tiếp theo. Đầu tiên, axit lactic được đào thải, sau đó các cơ trải qua quá trình sửa chữa, tái tạo và thậm chí tăng sinh khi cơ bắp trở nên to hơn và khỏe hơn.

Tập thể dục có thể làm giảm nguy cơ tử vong do ung thư vú, đặc biệt ở những phụ nữ có khối u thể nội tiết dương tính (HR+). [13] Một Phân tích Tổng hợp khi xem xét 16 nghiên cứu, đã cho thấy việc tập thể dục giúp giảm đáng kể tỷ lệ mắc bệnh ung thư vú giai đoạn đầu. [14]

Bất kỳ bài tập thể dục nào cũng được cho là có lợi cho việc chống lại bệnh. Ngay cả khi chỉ đi bộ một giờ mỗi tuần. Lợi ích này không phụ thuộc vào loại bài tập, cường độ hoặc tình trạng mãn kinh. [15] Hiệu quả của việc tập thể dục chống lại bệnh ung thư vú đã được thể hiện trong một Phân tích Tổng hợp tiến hành trên 42.602 phụ nữ.

Kết quả cho thấy thể dục có lợi cho khả năng sống sót cho dù việc tập thể dục được thực hiện trước hay sau khi bệnh được chẩn đoán. Người ta đã thấy có một dạng đáp ứng tuyến tính giữa mức độ tập thể dục và khả năng sống sót. Hoạt động thể chất càng nhiều thì khả năng sống sót càng cao. [14] Mối tương quan thể hiện trong tất cả các nghiên cứu mạnh mẽ đến mức một mối quan hệ nhân quả không thể chối cãi đã được xác định giữa tập thể dục và khả năng sống sót của bệnh ung thư vú.

Lợi ích của axit Lactic chống lại ung thư

Nhà hóa sinh đoạt giải Nobel Otto Warburg đã chỉ ra rằng các tế bào ung thư chuyển đổi đường dư thừa thành lactate (axit lactic) một cách nhanh chóng. Từ thời của Warburg, người ta đã quan sát thấy rằng đường thúc đẩy sự phát triển của ung thư và là nguồn nhiên liệu chính của nó. Kỹ thuật chẩn đoán hình ảnh PET CT đã tận dụng thực tế này. [16]

Chuyển đổi đường thành lactate (axit lactic) là cách mà cơ thể xử lý một lượng đường lớn và đột ngột, chẳng hạn như từ nước soda hoặc món tráng miệng, giúp ngăn ngừa cơn tăng đường huyết. Nhà nghiên cứu cao cấp Stephanie Seneff của trường MIT gọi quá trình chuyển đổi nhanh chóng một lượng lớn đường thành lactate này là “cỗ máy ung thư”. Ung thư phát sinh như một giải pháp (không mong muốn) để đáp ứng một vấn đề cấp bách trước mắt, đó là lượng đường nạp vào từ thức ăn cao vượt quá mức có thể chấp nhận của cơ thể, hay thậm chí cao tới mức nguy hiểm.

Người ta đã quan sát thấy Lactate (axit lactic) thấm vào các mô lân cận. [17]

Làm ngưng một phản ứng hóa học bằng cách cho thêm vào đó sản phẩm cuối cùng của chính nó

Nguyên tắc này cũng được biết tới nhiều trong dược học. Một ví dụ đó là sử dụng estrogen (liệu pháp thay thế hormone) bằng đường uống, đã được chứng minh là có thể làm giảm sản xuất estrogen của cơ thể. Tương tự như thế, tác động của việc sản xuất axit lactic thông qua hoạt động thể chất được cho là sẽ ức chế việc tạo ra axit lactic từ một con đường khác — trong trường hợp này là các hoạt động ung thư.

Đây là mục tiêu của chúng tôi với cỗ máy ung thư: làm nó chậm lại đến mức mà sự sống sót của tế bào ung thư không còn khả thi nữa hoặc làm cho nó ngừng hoạt động hoàn toàn.

Ung thư vú, cho đến nay, là loại ung thư phổ biến nhất ở phụ nữ. Tại phòng khám ung thư tự nhiên của tôi trong 17 năm, đây là loại ung thư phổ biến nhất ở những bệnh nhân mới. Với bất cứ trường hợp ung thư nào, phản ứng hóa học đều là chuyển đường thành lactate.

Tập thể dục cũng tạo ra lactate trong cơ nhưng không gây ung thư. Tập thể dục được biết là làm giảm hoặc ức chế ung thư. Các bài tập cơ ngực tạo ra axit lactic, sau đó axit này thấm vào các mô gần đó, từ đó bổ sung thêm sản phẩm cuối cùng vào phản ứng hóa học gây ung thư (cũng chuyển đường thành lactate). Điều này sau đó ức chế hoặc ngăn chặn phản ứng hóa học của ung thư và do đó ngăn chặn ung thư. Vì vậy, tôi tin rằng các bài tập ngực là một chiến lược giúp giảm nguy cơ, tỷ lệ mắc, mức độ nghiêm trọng của ung thư vú.

Lý thuyết của tôi

Các bài tập ngực bổ sung thêm lactate vào mô vú, theo Nguyên lý của Le Chatelier, đã đưa một trở ngại sinh hóa vào trong cỗ máy ung thư. Điều này dẫn đến việc tước đi lý do tồn tại của ung thư, ở toàn bộ mô vú sâu và đặc biệt là ở các góc phần tư phía trên bên ngoài.

Bắt đầu các bài tập ngực

Bài tập ép ngực (Chest Fly) thường được bắt đầu với quả tạ nặng 5 pound (hơn 2kg), mỗi tay một quả, trong khi nằm ngửa, dang hai tay ra 2 bên rồi giơ lên để tay chạm nhau ở giữa, trước mặt. Khuỷu tay được giữ hơi cong và các chuyển động được thực hiện nhịp nhàng và chậm rãi.

Mỗi lần tập, lặp lại động tác này từ 10 đến 20 lần. Trọng lượng thường tăng lên theo thời gian, có thể lên tới 10 hoặc 15 pound ở mỗi tay. Mỗi tuần tập 1-2 lần với các ngày nghỉ xen kẽ. Có thể xảy ra cảm giác đau nhức vào ngày hôm sau ở những cơ này do axit lactic tích tụ và khi các vết rách nhỏ của mô cơ lành lại.

Mục đích của những bài tập này là thêm sản phẩm cuối cùng vào một phản ứng hóa học không mong muốn: đó là phản ứng chuyển glucose thành pyruvate thành lactate của cỗ máy gây ung thư. Từ đó khiến ung thư không còn lý do tồn tại nữa, ít nhất là không tồn tại ở tuyến vú.

Theo The Epoch Times

Quân Dương biên dịch

Tác giả: Colleen Huber

Colleen Huber

Tác giả của các cuốn sách: Đánh bại COVID, Tuyên ngôn cho một bệnh nhân ung thư Hãy chọn thực phẩm như cuộc sống của bạn phụ thuộc vào chúng. Tất cả đều có trên Amazon. Cô đã là Bác sĩ y khoa thiên nhiên (Naturopathic Medical Doctor - NMD) trong 15 năm.

Tham khảo

[1] Y Han, J Moore, et al. Do breast quadrants explain racial disparities in breast cancer outcomes? Aug 27 2019. Cancer Causes Control. https://www.ncbi.nlm.nih.gov/pmc/articles/PMC6924513/

[2] D Gaffney, A Tsodikov et al. Diminished survival in patients with inner versus out quadrant breast cancers. Feb 1 2003. J Clin Oncol. 21 (3). 467-72. https://pubmed.ncbi.nlm.nih.gov/12560437/

[3] K Shahar, T Buchholz, et al. Lower and central tumor location correlates with lymphoscintigrphy drainage to the internal mammary chain lymph nodes in breast carcinoma. Feb 22 2005. Cancer. 103 (7). 1323-1329. https://acsjournals.onlinelibrary.wiley.com/doi/10.1002/cncr.20914

[4] S Estourgie, O Nieweg, et al. Lymphatic drainage patters from the breast. Feb 2004. Annals of Surgery. 239 (2). 232-237. https://www.ncbi.nlm.nih.gov/pmc/articles/PMC1356216/

[5] S Estourgie, P Tanis, et al. Should the hunt for internal mammary chain sentinel nodes begin? An evaluation of 150 breast cancer patients. Oct 2003. Ann. Surg. Oncol. 10 (8). 935-941. https://pubmed.ncbi.nlm.nih.gov/14527914/

[6] T Nelson, L Cerviño, et al. Classification of breast computed tomography data. Mar 2008. Med Phys. 35 (3). 1078-1086. https://www.ncbi.nlm.nih.gov/pmc/articles/PMC2706664/

[7] C Briskin, B O’Malley. Hormone action in the mammary gland. Dec 2010. Cold Spring Harb Perspect. Biol. 2 (12). https://www.ncbi.nlm.nih.gov/pmc/articles/PMC2982168/

[8] P Darbre. Underarm cosmetics and breast cancer. J Appl Toxicol. Mar-Apr 2003. 23 (2): 89-95. https://pubmed.ncbi.nlm.nih.gov/12666152/

[9] Penn Medicine. Is deodorant harmful for your health? June 2019. Univ. Penn. https://www.pennmedicine.org/updates/blogs/health-and-wellness/2019/june/deodorant

[10] P Darbre, A Aljarrah, et al. Concentrations of parabens in human breast tumours. Jan Feb 2004. J Appl. Toxicol. 24 (1): 5-13. https://pubmed.ncbi.nlm.nih.gov/14745841/

[11] P Harvey, D Everett. Significance of the detection of esters of p-hydroxybenzoic acid (parabens) in human breast tumours. Jan 8 2004. J Appl Toxicol. 24 (1). 1-4. https://analyticalsciencejournals.onlinelibrary.wiley.com/doi/10.1002/jat.957

[12] P Darbre. Aluminium, antiperspirants and breast cancer. Sept 2005. J Inorg Biochem. 99 (9). 1912-1919. https://www.sciencedirect.com/science/article/abs/pii/S0162013405001613

[13] M Holmes, W Chen, et al. Physical activity and survival after breast cancer diagnosis. 2005. JAMA 293. 2479-2486. https://jamanetwork.com/journals/jama/fullarticle/200955

[14] D Schmid, M Leitzmann. Association between physical activity and mortality among breast cancer and colorectal cancer survivors: a systematic review and meta-analysis 2014. Ann Oncol. 25. 1293-1311. https://www.annalsofoncology.org/article/S0923-7534(19)36684-0/fulltext

[15] F Bianchini, R Kaaks, et al. Weight control and physical activity in cancer prevention. February 21 2022. Obesity Reviews. 3 (1). 5-8. https://onlinelibrary.wiley.com/doi/abs/10.1046/j.1467-789X.2002.00046.x

[16] C Huber. Cancer patients’ use of sweeteners: a 7-year controlled study. 2014. Int J Cancer Res Molec Mech. https://sciforschenonline.org/journals/cancer-research/IJCRMM-2-127.php

[17] G Brooks. The science and translation of lactate shuttle theory. Apr 3 2018. Cell Metabolism. 27 (4). 757-785. https://www.cell.com/cell-metabolism/fulltext/S1550-4131(18)30186-4



BÀI CHỌN LỌC

Lý thuyết mới về Ung thư vú và thể dục