FDI vào Trung Quốc tháng 11 xuống mức thấp nhất trong gần 4 năm

Giúp NTDVN sửa lỗi

Các doanh nghiệp nước ngoài ngày càng cho thấy rõ họ đang muốn xa lánh Trung Quốc. Thậm chí, Trung Quốc đang có nguy cơ bị cô lập.

Vào tháng 11, đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào Trung Quốc đã giảm xuống mức thấp nhất trong gần 4 năm, cho thấy sự thoái vốn nhanh chóng của các công ty nước ngoài khỏi Trung Quốc trong bối cảnh căng thẳng địa chính trị và suy thoái kinh tế của Trung Quốc.

Từ dữ liệu do Bộ Thương mại công bố hôm thứ 5 (21/12), Bloomberg tính toán rằng lượng vốn nước ngoài thực tế được sử dụng ở Trung Quốc trong tháng trước là 53,3 tỷ CNY (nhân dân tệ) (7,5 tỷ USD), giảm 19,5% so với cùng kỳ năm ngoái. Đây là con số thấp nhất (53,3 tỷ) kể từ khi virus Covid-19 bùng phát vào tháng 2/2020.

Những dữ liệu này cho thấy thêm rằng sau khi Bắc Kinh mở cửa trở lại biên giới, nền kinh tế Trung Quốc không những không trải qua sự "phục hồi trả thù" mà thay vào đó phải trải qua một cuộc tháo chạy vốn nước ngoài quy mô lớn, ngoại thương bị thu hẹp, tỷ lệ thất nghiệp tăng vọt, nhà máy đóng cửa, mức nợ cao trong chính quyền các cấp và sự suy thoái sâu sắc của thị trường bất động sản. Niềm tin của các nhà đầu tư quốc tế đã giảm đi rất nhiều.

Nợ phải trả đầu tư trực tiếp, thước đo đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), đã giảm 11,8 tỷ USD trong quý III, theo dữ liệu do Cục Quản lý Ngoại hối Nhà nước Trung Quốc công bố vào ngày 3/11. Đây là lần đầu tiên Trung Quốc bị thâm hụt trong số liệu này kể từ khi Cục bắt đầu ghi nhận dữ liệu vào năm 1998.

Bắc Kinh đã tăng cường nỗ lực thu hút nhà đầu tư nước ngoài trong năm nay với hy vọng cải thiện tâm lý thị trường, nhưng vốn nước ngoài vẫn tiếp tục bỏ chạy.

FDI vào Trung Quốc tháng 11 xuống mức thấp nhất trong gần 4 năm
Công nhân Trung Quốc trong nhà máy Foxconn ở Thâm Quyến, tỉnh Quảng Đông phía nam Trung Quốc, hôm 27/05/2010. (Ảnh: STR/AFP/Getty Images)

Vốn đầu tư trực tiếp chảy sang Đông Nam Á thay vì Trung Quốc

Năm 2022, Đông Nam Á thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ở mức cao kỷ lục, đạt 222 tỷ USD. Mỹ là nước đi đầu trong nỗ lực giảm sự phụ thuộc vào Trung Quốc.

Theo dữ liệu từ Hội nghị Liên hợp quốc về Thương mại và Phát triển, trong giai đoạn từ 2017 đến 2022 khi xung đột thương mại Trung Quốc - Mỹ leo thang, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tới 11 nước Đông Nam Á đã tăng 40%, vượt mức tăng đầu tư nước ngoài vào các khu vực như Trung Quốc, Mỹ Latinh và châu Phi.

Mỹ là quốc gia dẫn đầu thế giới về các dự án đầu tư vốn ở Đông Nam Á, chi 74,3 tỷ USD để xây dựng nhà máy cũng như tài trợ các dự án khác từ năm 2018 đến năm 2022, theo Hệ thống theo dõi đầu tư trực tiếp nước ngoài xuyên biên giới của Financial Times.

Các công ty Mỹ ở Đông Nam Á chủ yếu tập trung đầu tư vào các ngành liên quan đến chất bán dẫn ở các quốc gia như Singapore và Malaysia.

Bộ Ngoại giao Mỹ cho biết trong một tuyên bố sau chuyến thăm Việt Nam của Tổng thống Biden vào tháng 9: “Việt Nam dự kiến sẽ là đối tác trong việc đảm bảo tính đa dạng và khả năng vững bền của chuỗi cung ứng chất bán dẫn”.

Đáp lại, các công ty Mỹ như Marvell Technology và Synopsys đã bày tỏ sự háo hức đầu tư vào Việt Nam.

Amkor Technology đã khai trương nhà máy sản xuất chất bán dẫn tại tỉnh Bắc Ninh, miền Bắc Việt Nam vào tháng 10. Nhà máy trị giá 1,6 tỷ USD này được thiết kế để trở thành cơ sở sản xuất lớn nhất thế giới của công ty Hoa Kỳ này và tạo ra khoảng 10.000 việc làm.

Mục đích chính của các công ty Mỹ khi tăng cường đầu tư vào Đông Nam Á là giảm sự phụ thuộc quá mức vào chuỗi cung ứng của Trung Quốc và tìm kiếm sự đa dạng hóa chuỗi cung ứng.

Thứ 2 (27/11), Tòa Bạch Ốc đã công bố gần 30 biện pháp mới nhằm tăng cường chuỗi cung ứng quan trọng, nhấn mạnh việc hợp tác với các đồng minh. Các lĩnh vực bao gồm là y học, chất bán dẫn, năng lượng và khoáng sản quan trọng.

FDI vào Trung Quốc tháng 11 xuống mức thấp nhất trong gần 4 năm
Các container hàng chồng lên nhau tại cảng Tú Thiên ở phía đông tỉnh Giang Tô, Trung Quốc ngày 26/3/2023. (STR/AFP qua Getty Images)

Đầu tư từ Đài Loan chuyển hướng

Bộ trưởng Bộ Kinh tế Đài Loan Wang Meihua gần đây đã tham gia một cuộc phỏng vấn độc quyền với "Nikkei Asia" và chỉ ra rằng "Đầu tư của Đài Loan vào Đông Nam Á và Nam Á thực sự đã vượt quá đầu tư vào Trung Quốc lần đầu tiên vào năm 2022. Chúng tôi tin rằng do tác động từ căng thẳng trong quan hệ thương mại Mỹ-Trung, xu hướng này sẽ chỉ tiếp tục [trong tương lai]”.

Năm 2018, sau khi cuộc chiến thương mại giữa Mỹ và Trung Quốc leo thang, các nhà cung cấp công nghệ lớn của Đài Loan đã đẩy mạnh việc đa dạng hóa ra khỏi Trung Quốc. Và nhiều khách hàng Mỹ đang yêu cầu các nhà cung cấp của họ xây dựng năng lực sản xuất tại Đài Loan và các nước Đông Nam Á như Việt Nam hay Thái Lan và Ấn Độ.

Bà Wang Meihua cho rằng xu hướng này đã trở nên sắc nét hơn trong năm nay. Bà chỉ ra rằng trong 9 tháng đầu năm 2023, đầu tư của các công ty Đài Loan vào Đông Nam Á và Ấn Độ đạt 4,3 tỷ USD, trong khi đầu tư vào Trung Quốc trong cùng kỳ chỉ là 1,26 tỷ USD.

Việt Nam đã thu hút đầu tư từ các nhà sản xuất lớn như Hon Hai, Wistron, Quanta, Pegatron, Compal và Inventec và trở thành trung tâm lớn của ngành công nghiệp điện tử. Các quan chức của Bộ Kinh tế Đài Loan phân tích, chi phí lao động thấp của Việt Nam, lợi thế về địa lý khi nằm ngay cạnh Trung Quốc và nhiều hiệp định ưu đãi được ký kết với nhiều nước sẽ hỗ trợ đẩy nhanh tốc độ di dời cơ sở sản xuất của các nhà sản xuất linh kiện điện tử sang Việt Nam.

FDI vào Trung Quốc tháng 11 xuống mức thấp nhất trong gần 4 năm
Logo Foxconn (Hon Hai Technology Group) trên một tòa nhà Foxconn ở Đài Bắc vào ngày 31/01/2019. (Ảnh: SAM YEH / AFP qua Getty Images)

Hiện tượng ‘ba số 0’ cho thấy Trung Quốc có nguy cơ bị cô lập

Các doanh nghiệp nước ngoài dường như đang xa lánh Trung Quốc. Thậm chí, những dấu hiệu đang cho thấy Trung Quốc có nguy cơ bị cô lập.

Mới đây, một đoạn video của nhà kinh tế học nổi tiếng người Trung Quốc Gelong, phân tích tình hình kinh tế hiện nay ở Trung Quốc, đã được lan truyền trên cộng đồng mạng Trung Quốc. Trong video này, ông Gelong đã thảo luận về hiện tượng "ba số 0" trong lưu thông kinh tế đối ngoại của Trung Quốc và kêu gọi công chúng "hết sức cảnh giác" về điều này.

Video này xuất phát từ kênh truyền thông cá nhân “Nói chuyện chứng khoán, nói tiền bạc, nói chuyện trời đất” của ông Gelong. Trong tập này, ngay từ đầu, ông Gelong đã thẳng thắn chỉ ra rằng nền kinh tế Trung Quốc có thể thực sự trở thành một “nền kinh tế hòn đảo” (bị cô lập) và buộc phải theo đuổi “lưu thông nội bộ”, bởi vì một số dữ liệu quan trọng trong “lưu thông bên ngoài” về cơ bản hiện nay đã “trở về số 0” ở Trung Quốc.

Vị tiến sĩ tài chính đã thảo luận về ba khía cạnh sau đây trong sự phát triển kinh tế của Trung Quốc, những thứ đang có xu hướng "trở về số 0":

Khách nước ngoài tới Trung Quốc giảm về 0

Ông Gelong cho biết trong quý đầu tiên của năm 2019 trước khi đại dịch Covid bùng phát trên diện rộng, hơn 3,7 triệu người đã đến Trung Quốc từ nước ngoài; tuy nhiên, con số trong quý I năm 2023 chỉ là 52.000 người và số liệu này chưa bằng một phần nhỏ so với năm 2019, giảm 98,6% so với cùng kỳ năm 2019. Trong số 52.000 khách du lịch nội địa, 56% đến từ Hong Kong và 22% đến từ Ma Cao. Điều này có nghĩa là chỉ có khoảng 10.000 “người nước ngoài” thực sự đến từ các nước khác.

Ông cho rằng đây là điều “cực kỳ khó tưởng tượng” đối với một quốc gia có diện tích đất liền lớn thứ ba thế giới. Người nước ngoài không còn đến Trung Quốc, điều đó không chỉ có nghĩa là chuỗi ngành du lịch inbound đã sụp đổ mà còn có nghĩa là Trung Quốc có thể rơi trở lại tình trạng bị phong tỏa, không ai quan tâm hoặc ít người quan tâm, giống như họ đã từng bị vào những năm 1970. “Điều khác biệt là lần này không phải chúng ta [người Trung Quốc] không cho người khác đến mà là người khác tự họ không đến”.

Ông nói: “Chúng ta thường lo lắng về việc vốn đầu tư nước ngoài rút đi. Thực tế, điều triệt để hơn việc rút vốn đầu tư nước ngoài là các khách hàng nước ngoài đã không còn đến nữa. Họ đã đến Mexico, Việt Nam, Ấn Độ và Indonesia".

Chuyến bay giảm về 0

Trước đại dịch, mỗi tháng có hơn 3.800 chuyến bay giữa Trung Quốc và Mỹ, trung bình hơn 100 chuyến mỗi ngày. Hiện chỉ có 4 đến 6 chuyến bay thẳng giữa Trung Quốc và Mỹ mỗi ngày, “về cơ bản là con số 0”.

Ông Gelong đặc biệt chỉ ra: Trong 70 năm qua, 70% tổng thặng dư ngoại thương của Trung Quốc đến từ Mỹ. Bạn có thể nghĩ mà xem, trong một môi trường không có chiến tranh hay dịch bệnh, mỗi ngày chỉ có 4 đến 6 chuyến bay giữa Trung Quốc và Mỹ. Nó có nghĩa là gì?

FDI vào Trung Quốc tháng 11 xuống mức thấp nhất trong gần 4 năm
Hành khách được nhìn thấy tại Sân bay Quốc tế Đại Hưng Bắc Kinh ở thủ đô của Trung Quốc vào ngày 28/4/2023. (Ảnh: Jade Gao/AFP qua Getty Images)

Tiền giảm về 0

Năm 2023, chỉ có 8 quỹ ngoại tệ được huy động ở Trung Quốc; so với 114 vào cùng kỳ năm trước; và 792 trong cùng kỳ năm trước nữa. Trong nửa đầu năm 2023, các quỹ đầu tư tư nhân tập trung vào Trung Quốc chỉ huy động được 1,4 tỷ USD. So với gần 50 tỷ USD nửa đầu năm 2021, số liệu này cũng “cơ bản tiệm cận con số 0”.

Ông Gelong kết luận rằng: dòng người, hậu cần và vốn là ba yếu tố cốt lõi của phát triển kinh tế. Nguyên nhân chính xác khiến các dữ liệu quan trọng nói trên “giảm về 0” cần được phân tích rõ ràng. Nếu nó là do đại dịch gây ra thì vẫn còn cơ hội sửa chữa, điều chỉnh; nhưng nếu nguyên nhân là do chiến tranh thương mại và xích mích chính trị thì có nghĩa là nền kinh tế Trung Quốc đang trải qua “xu hướng đảo chiều cơ cấu dài hạn”, và đó thực sự có thể là vấn đề của một thế hệ. "Gánh nặng là không thể chịu đựng nổi".

Cuối cùng, ông nhấn mạnh một lần nữa: Trung Quốc là một trong những nước được hưởng lợi nhiều nhất từ toàn cầu hóa trong vài thập kỷ qua, và hơn 60% năng lực sản xuất của Trung Quốc là để phục vụ thị trường bên ngoài. Nếu Trung Quốc đi theo con đường cô lập bên trong và bên ngoài, nền kinh tế Trung Quốc một lần nữa trở thành “nền kinh tế hòn đảo” thì hậu quả sẽ rất thảm khốc. Nếu không thể thực hiện được những thay đổi cơ bản, “chúng ta [người Trung Quốc] sẽ phải gánh chịu những tổn thất lớn khó có thể bù đắp được”.

Bảo Nguyên tổng hợp



BÀI CHỌN LỌC

FDI vào Trung Quốc tháng 11 xuống mức thấp nhất trong gần 4 năm