F-16 của Đài Loan nâng cấp thành Viper, trở thành phi đội lớn nhất khu vực

Giúp NTDVN sửa lỗi

Căng thẳng ở eo biển Đài Loan vẫn chưa có dấu hiệu hạ nhiệt. Việc Mỹ cung cấp bom dẫn đường AGM-154 cho phi đội F-16 nâng cấp của Đài Loan đã mang đến sự gia tăng đáng chú ý về hỏa lực, khiến cho sức mạnh chiến đấu của Không quân Đài Loan không thể xem nhẹ.

Theo thông báo từ Lầu Năm Góc ngày 2/2, Mỹ đã trao hợp đồng trị giá 68,4 triệu USD cho Tập đoàn Hệ thống Tên lửa Raytheon để sản xuất và cung cấp 50 quả bom dẫn đường AGM-154 cho Không quân Đài Loan. Dự kiến đơn hàng này sẽ hoàn thành vào tháng 3/2028.

Tên lửa không đối đất AGM-154 Block 3 C (JSOW) là hệ thống vũ khí dẫn đường chính xác tầm trung. Được sử dụng để tấn công các mục tiêu mặt đất từ ​​bên ngoài phạm vi phòng thủ tên lửa. Cho phép phi công thực hiện các cuộc tấn công ở khoảng cách từ 20 đến 70 hải lý. Loại vũ khí này có thể được phóng từ các máy bay chiến đấu F/A-18, F-16, F-15 và F-35 cũng như máy bay ném bom tầm xa B-1B, B-2A và B-52H.

AGM-154C dài 13 feet (khoảng 4 mét) và nặng khoảng 1.000 pound (khoảng 454kg). Định vị toàn cầu (GPS) và hệ thống dẫn đường quán tính (INS) được sử dụng để điều hướng và thiết bị đầu cuối sử dụng hướng dẫn hồng ngoại. Nó có thể mang đầu đạn hai giai đoạn gọi là "BROACH", bao gồm đầu đạn tăng cường WDU-44 và bom tiếp theo WDU-45. Đầu đạn giai đoạn một có nhiệm vụ xuyên thủng áo giáp, bê tông và các mục tiêu cứng dưới lòng đất, khiến đầu đạn giai đoạn hai phát nổ bên trong mục tiêu.

Trong bối cảnh Trung Quốc liên tục gia tăng căng thẳng ở khu vực Ấn Độ - Thái Bình Dương, việc tăng cường sức mạnh cho Không quân Đài Loan trở nên đặc biệt quan trọng. Đài Loan đang thực hiện kế hoạch ‘Hòa bình Phượng Hoàng Niết Bàn’ nhằm sử dụng những chiếc F-16 tiên tiến nhất để tác động đến thế đối đầu ở khu vực eo biển Đài Loan.

Kế hoạch ‘Phượng Hoàng Niết Bàn’ trị giá 4,5 tỷ USD, bao gồm việc nâng cấp 139 chiếc F-16 phiên bản cũ lên phiên bản Block 70/72 Viper. Việc nâng cấp này sẽ biến Không quân Đài Loan thành một trong số ít các lực lượng không quân trên thế giới sở hữu những tiêm kích hiện đại và mạnh mẽ nhất.

Tuổi thọ phục vụ của Viper nâng cấp đã tăng từ 8.000 giờ lên 12.000 giờ, đồng thời các cảm biến và liên kết dữ liệu hiện đại cho phép nó chiến đấu bên cạnh các máy bay chiến đấu thế hệ thứ năm như F-22 Raptor và F-35 Lightning II. Các cảm biến tiên tiến được sử dụng trong Viper bao gồm radar mảng quét điện tử chủ động (AESA), nhóm nhắm mục tiêu bắn tỉa, phần mềm kết nối mạng Link 16 và điều hướng GPS chính xác. Viper cũng được cập nhật hệ thống vũ khí tiên tiến và thiết bị hạ cánh được gia cố.

Ông Nathan Frock, Giám đốc dự án nâng cấp F-16 cho Đài Loan thuộc Trung tâm Quản lý Vòng đời Không quân Hoa Kỳ, cho biết việc nâng cấp bổ sung cho máy bay bao gồm một loạt cải tiến cấu trúc đối với cánh, thân và hệ thống hạ cánh, giúp tăng trọng lượng cất cánh và hạ cánh của máy bay. Thông tin này cho thấy F-16 sau khi nâng cấp không chỉ có tuổi thọ dài hơn mà còn có khả năng tăng tải trọng và tầm bắn.

Bước tiếp theo của Không quân Đài Loan là nhận 66 máy bay chiến đấu F-16 Block 70/72 Viper hoàn toàn mới để tiếp tục mở rộng phi đội chiến đấu của mình. Chương trình này tiêu tốn 8 tỷ USD, nhưng tiến độ thực hiện, giống như nhiều kế hoạch quốc phòng khác, không theo kịp lịch trình đề ra.

Việc nâng cấp phi đội F-16 của Không quân Đài Loan không chỉ đơn giản là tăng cường số lượng và khả năng chiến đấu của máy bay, mà còn mang đến những thay đổi to lớn về năng lực tác chiến cho quân đội Đài Loan, bao gồm khả năng hợp tác tác chiến với Hoa Kỳ và các đồng minh trong khu vực.

Điểm mấu chốt của kế hoạch ‘Phượng Hoàng Niết Bàn’ là mở rộng hệ thống vũ khí của F-16 và tiềm năng phát triển trong tương lai. Cổng kết nối dữ liệu mới cho phép máy bay liên kết với hệ thống quản lý thông tin chiến trường của quân đội Hoa Kỳ, biến Đài Loan thành một phần trong chiến lược đối đầu với Trung Quốc của Hoa Kỳ và các đồng minh trong khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương.

Vậy phiên bản F-16 mới nhất mạnh mẽ đến mức nào? Để trả lời câu hỏi này, chúng ta cần bắt đầu từ đầu.

Mọi chuyện bắt đầu từ một cuộc tranh luận về F-111 giữa kỹ sư Harry Hillaker của General Dynamics và phi công John R. Boyd, người nổi tiếng với tính khí nóng nảy. Cuộc tranh luận này dẫn đến việc thành lập một "tổ chức bí mật" được Không quân gọi là "Mafia tiêm kích" (Fighter Mafia).

Niềm tin cốt lõi của nhóm này là phi công không cần phải áp đảo đối thủ bằng tốc độ và trọng lượng. Kinh nghiệm chiến đấu trong cuộc chiến tranh Việt Nam, nơi F-4 của Mỹ phải đối mặt với tiêm kích MiG linh hoạt của Liên Xô, đã khiến họ tin rằng thời đại chiến đấu tầm gần bằng pháo máy vẫn chưa kết thúc, và không thể thay thế hoàn toàn bằng tấn công tầm xa bằng tên lửa không đối không.

Họ tin rằng chìa khóa để giành chiến thắng trong một cuộc không chiến là duy trì lợi thế về năng lượng và khả năng cơ động. Đây chính là "Lý thuyết cơ động năng lượng" của họ.

Fighter Mafia tin rằng máy bay cỡ nhỏ sẽ có tỷ lệ lực đẩy trên trọng lượng và tỷ lệ nâng trên cản cao. Thiết kế ban đầu của F-16 cho thấy lực cản khi bay ngang chỉ bằng khoảng một phần ba so với F-4, và lực cản ở góc tấn công lớn chỉ bằng khoảng một phần mười lăm so với F-4. Họ cũng so sánh đường cong chi phí của các mẫu máy bay trước đây và phát hiện ra rằng tốc độ tăng chi phí cho mỗi pound trọng lượng máy bay tăng tương tự như tốc độ tăng của tổng chi phí. F-16 cũng tuân theo quy luật này. Mặc dù chi phí của F-16 cao hơn một chút so với các đối thủ cạnh tranh khi so sánh ngang hàng, nhưng do trọng lượng nhẹ hơn, tổng chi phí của nó vẫn thấp hơn.

Cuối cùng, Không quân đã gửi lời mời cho General Dynamics và Northrop để xem xét hướng phát triển trong tương lai. General Dynamics kết luận rằng có thể sản xuất một loại tiêm kích có khả năng cơ động và bán kính hoạt động cao gấp hai lần F-4, nhưng trọng lượng chỉ hơn một nửa so với F-4.

Dự án máy bay chiến đấu hạng nhẹ được chính thức khởi động vào tháng 1/1972. Lầu Năm Góc đã chọn YF-16 của General Dynamics và YF-17 của Northrop từ năm công ty để cạnh tranh. Chỉ 20 tháng sau, YF-16 ra mắt lần đầu tiên. Chuyến bay đầu tiên diễn ra vào tháng 1/1974 tại Căn cứ Không quân Edwards ở California. Trong suốt năm 1974, YF-16 và YF-17 đã trải qua một loạt cuộc thử nghiệm và thử nghiệm không chiến, cuối cùng YF-16 đã giành chiến thắng. Vào tháng 8/1978, Không quân Hoa Kỳ nhận được chiếc F-16 sản xuất đầu tiên.

F-16 có thiết kế khí động học lấy cảm hứng từ hình dạng cá mập, với cánh tam giác ngắn và đuôi lớn. Đây là tiêm kích đầu tiên áp dụng thiết kế thân cánh hòa quyện, mang lại đặc tính nâng lực tuyệt vời ở góc tấn công lớn. Việc chú trọng vào góc tấn công lớn giúp cải thiện đáng kể khả năng cơ động của máy bay.

Nhờ được trang bị động cơ tiên tiến nhất thời bấy giờ, bao gồm F100 của Pratt & Whitney và F110 của General Electric, F-16 có thể đạt tốc độ 2 Mach ở độ cao lớn và có tầm bay hơn 2.000 dặm.

Vũ khí tiêu chuẩn của F-16 bao gồm pháo 20mm với 500 viên đạn. Các phiên bản Block 50 sau này có thể mang theo tới 22.000 pound vũ khí, thiết bị chống nhiễu điện tử, pod cảm biến hoặc thùng nhiên liệu trên 11 điểm treo vũ khí.

Trong 25 năm qua, khung thân cơ bản của F-16 đã được phát triển thành một loạt các phiên bản, phụ tùng nâng cấp và cấu hình khác nhau. Tập đoàn Lockheed Martin mua lại dây chuyền sản xuất từ General Dynamics vào năm 1992 và cho đến nay đã phát triển hơn 110 phiên bản F-16 khác nhau.

Tất nhiên, không phải mọi đề xuất của "Fighter Mafia" đều được chấp nhận. Họ tin rằng máy bay chiến đấu không nên gánh nặng với các hệ thống điện tử hàng không hạng nặng như radar trên không mà nên tập trung vào sự nhẹ nhàng và linh hoạt, chỉ cần pháo và tên lửa hồng ngoại tầm ngắn. Nhóm thiết kế của F-16 nhấn mạnh vào việc trang bị radar trên không và radar dẫn đường cho tên lửa không đối không tầm trung và tầm xa, điều này khiến F-16 trở thành một nền tảng có khả năng tấn công không đối không ngoài tầm nhìn (BVR - Beyond Visual Range) và vẫn hoạt động hiệu quả đến ngày nay.

Tuy nhiên, ngay cả khi hầu hết các khái niệm được ‘Fighter Mafia’ quảng bá đã lỗi thời vào thời điểm cuộc chiến giành máy bay chiến đấu hạng nhẹ bắt đầu, thì không thể bỏ qua tác động của lý thuyết điều động năng lượng đối với ngành hàng không quân sự.

Một chiếc General Dynamics F-16 có giá chỉ hơn 6 triệu USD/chiếc vào năm 1975, tương đương 36 triệu USD ngày nay. Mặc dù chiếc máy bay này không lập kỷ lục thế giới về tốc độ hay hiệu suất leo dốc như F-15, nhưng hiệu suất tổng thể của nó vẫn có thể vượt qua hầu hết mọi đối thủ mà nó có thể gặp phải, đồng thời giá thành của nó thấp đến mức đáng ngạc nhiên so với các máy bay chiến đấu hàng đầu. Khi F-15 xuất hiện lần đầu tiên vào đầu những năm 1970, hiệu suất vượt trội của nó đi kèm với mức giá cạnh tranh không kém. Trong những ngày đầu, một chiếc F-15A có giá 28 triệu USD, tương đương 227,5 triệu USD ngày nay, gần bằng giá của 3 chiếc F-35A ngày nay.

F-16 cũng là tiêm kích đầu tiên được trang bị hệ thống điều khiển bay điện tử (fly-by-wire), hệ thống này giao nhiệm vụ điều khiển bay cho máy tính. Thay vì trực tiếp điều khiển máy bay, phi công sẽ nhập lệnh cho máy tính, và máy tính sẽ thực hiện điều khiển máy bay. Công nghệ mang tính cách mạng này giúp chế tạo một loại tiêm kích có thiết kế khí động học không ổn định nhưng linh hoạt hơn, điều này trước đây là không thể nghĩ được. Nó có thể giảm năng lượng cần thiết cho bay cơ động. Kết quả là F-16 trở thành một trong những tiêm kích đầu tiên có thể dễ dàng thực hiện cơ động 9G khi mang tải trọng đầy đủ. Nó ổn định như một máy bay chở khách khi bay ngang, và cho đến khi F-22 Raptor sử dụng động cơ vectơ lực đẩy xuất hiện vào năm 2005, nó gần như có thể vượt qua mọi tiêm kích trong kho vũ khí của Mỹ.

Trong lịch sử không chiến, F-16 đạt kỷ lục 76:1, khiến nó trở thành máy bay chiến đấu vượt trội nhất trong thế hệ của nó. Trận thua gây tranh cãi duy nhất được cho là do hỏa lực từ giao hữu.

Mặc dù được thiết kế chủ yếu cho nhiệm vụ chiến đấu trên không, tốc độ, sự linh hoạt và tính đa dụng của F-16 đã nhanh chóng biến nó thành tiêm kích đa nhiệm vụ thực thụ đầu tiên của Hoa Kỳ. Ngay từ khi bắt đầu phục vụ, F-16 đã thể hiện khả năng vượt trội trong các hoạt động tấn công. Cấu trúc và giao diện vũ khí cần thiết cho nhiệm vụ tấn công mặt đất đã được trang bị tiêu chuẩn cho F-16 từ năm 1981.

Năm 1991, trong Chiến dịch Bão táp sa mạc, F-16 thực hiện nhiều nhiệm vụ nhất, phần lớn trong số đó là không kích. Trong cuộc tấn công vào lò phản ứng hạt nhân Tuvita ở phía nam Baghdad, Thiếu tá Emmett Tullia, phi công người Mỹ thuộc Phi đoàn tiêm kích 401, đã điều khiển chiếc F-16 tránh liên tiếp 6 tên lửa đất đối không. Cho đến khi kết thúc nhiệm vụ, mồi nhử hồng ngoại và nhiễu xạ gây nhiễu tên lửa phòng không đều không có tác dụng, F-16 thành công tránh được 6 đòn tấn công tên lửa chết người.

F-16 kết hợp giữa hiệu suất cao và chi phí thấp, khiến nó trở thành xương sống của lực lượng không quân Hoa Kỳ và gần 30 quốc gia trên thế giới sở hữu máy bay chiến đấu F-16. F-35, F-16 vẫn là xương sống của Không quân Mỹ. Đến nay, tổng sản lượng của nó đã vượt quá 4.600 chiếc và chiếc Viper mới nhất tiếp tục lăn bánh khỏi dây chuyền lắp ráp.

Phi đội F-16 lớn nhất ở khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương là ở Đài Loan. Đến năm 2026, Không quân Đài Loan sẽ có hơn 200 chiếc F-16V Viper phiên bản mới nhất. Những chiếc Viper này có thể được tích hợp với việc triển khai của Hoa Kỳ tại Tây Thái Bình Dương thông qua hệ thống chỉ huy và điều khiển chiến trường. Các máy bay chiến đấu khác nhau thiết lập mối quan hệ hợp tác. Viper gia nhập Lực lượng Không quân Đài Loan tương đương với một vũ khí sắc bén nằm im lìm bên cạnh Trung Quốc, sẵn sàng tung đòn chí mạng bất cứ lúc nào.

Theo The Epoch Times
Lý Ngọc biên dịch

Thế giới Quân sự


BÀI CHỌN LỌC

F-16 của Đài Loan nâng cấp thành Viper, trở thành phi đội lớn nhất khu vực