Chuyên gia: Bầu cử giữa kỳ có thể là cơ hội cuối cùng để Mỹ ngăn chặn thảm họa kinh tế

Giúp NTDVN sửa lỗi

Một vấn đề đáng lo ngại hàng đầu của Mỹ là tỷ lệ nợ liên bang trên GDP. Nếu các đảng viên Cộng hòa không giành chiến thắng tại cuộc bầu cử giữa kỳ sắp tới và thay đổi hướng đi, có thể Mỹ sẽ sụp đổ giống như Hy Lạp. Tuy nhiên ngay cả với trường hợp khả quan nhất, nước Mỹ vấn đứng trước một viễn cảnh không chắc chắn.

Cuộc bầu cử giữa nhiệm kỳ vào ngày 08/11 của Mỹ sắp sửa diễn ra trong bối cảnh lạm phát tiếp tục gia tăng, chi tiêu liên bang quá mức và những cảnh báo ngày càng nghiêm trọng về tình trạng nền kinh tế. Đây có thể là một trong những cơ hội cuối cùng để có được đa số lập pháp sẵn sàng và có thể đảo ngược các chính sách tài khóa thảm khốc, thứ đang đẩy nước Mỹ tới chỗ sụp đổ tương tự như cuộc khủng hoảng nợ xảy ra với Hy Lạp năm 2009, theo một chuyên gia kinh tế.

Lạm phát tiếp tục đóng một vai trò gây mất ổn định và tạo ra những căng thẳng tồi tệ hơn lên cử tri. Các số liệu mới nhất cho thấy trong tháng 9, chỉ số tiêu dùng cá nhân lõi, không bao gồm thực phẩm và năng lượng, đã tăng 0,5% so với tháng 8. Trong cùng tháng, thu nhập của người Mỹ đã tăng 0,4% (con số chưa được điều chỉnh theo lạm phát), trong khi chi tiêu tổng thể của họ tăng 0,6%.

Vào tháng 6, lạm phát đạt 9,1%, mức cao nhất kể từ tháng 11/1981. Tỷ lệ lạm phát hàng năm cho đến tháng 9 là 8,2%. Thời điểm công bố lạm phát tháng 10 sẽ là 10/11.

Một số nhà kinh tế cho biết những con số này phần lớn là kết quả của chính sách tiền tệ mở rộng của chính quyền Biden, dẫn đến việc quá nhiều tiền có sẵn để mua quá ít hàng hóa. Việc chính phủ liên bang tích cực mua trái phiếu kho bạc Mỹ (trái phiếu chính phủ Mỹ) đã cung cấp cho các ngân hàng một lượng tiền mặt thanh khoản thừa thãi để cho vay.

Nhưng theo quan điểm của một chuyên gia, con số đáng lo ngại nhất - và là điềm báo cho những tai ương kinh tế thậm chí còn nghiêm trọng hơn sắp tới, nếu không có sự đảo ngược mạnh mẽ trong chính sách tài khóa - là tỷ lệ nợ liên bang trên GDP [tổng sản phẩm quốc nội], hiện ở mức 125%, có nghĩa là các khoản nợ của chính phủ vượt quá toàn bộ giá trị hàng hóa và dịch vụ do Mỹ sản xuất trong một năm.

Ông Ivan Pongracic, giáo sư khoa kinh tế tại trường Đại học Hillsdale, nhận thấy con số này đặc biệt đáng quan tâm khi so sánh với con số 56% vào năm 2000.

“Chúng ta đã thấy tỷ lệ này tăng hơn gấp đôi trong 20 năm qua, điều này thật đáng kinh ngạc”, ông Pongracic nói với The Epoch Times. “Chính phủ liên bang đang chi một phần tư tổng thu nhập được tạo ra ở đất nước này. Ngân sách liên bang là khoảng 6 nghìn tỷ USD vào thời điểm này, và GDP là khoảng 22 nghìn tỷ USD”.

Ưu tiên của đội ngũ lập pháp Cộng hòa

Nếu Đảng Cộng hòa làm tốt trong cuộc bầu cử giữa nhiệm kỳ và chiếm lại Hạ viện và Thượng viện, một trong những nhiệm vụ cấp bách của đảng này sẽ là ổn định tỷ lệ nợ trên GDP, ông Pongracic nói. Điều này nên được đặt lên hàng đầu trong bất kỳ kế hoạch tài khóa nào nếu các nhà lập pháp muốn ngăn chặn một cuộc khủng hoảng nợ toàn diện. Nhưng một kế hoạch hành động sẽ đòi hỏi phải đảo ngược tình trạng thờ ơ hiện tại về sự gia tăng nợ đến mức không thể tưởng tượng được cho đến nay, theo giáo sư kinh tế học.

“Bây giờ nó đang ở mức 125%, vì vậy nó đã phát triển hoàn toàn ra ngoài tầm kiểm soát và tôi nghĩ rằng mọi người đều cảm thấy khá thờ ơ về điều đó. Mọi người chỉ nghĩ rằng đồng USD là đồng tiền tệ dự trữ của thế giới, và chúng ta có thể tiếp tục vay mà không có giới hạn”, ông nói.

Một phần của vấn đề là trước đây người Mỹ chưa từng trải qua tình trạng vỡ nợ kiểu Hy Lạp, và một số người có thể đã bị ru ngủ với cảm giác rằng nợ có thể tiếp tục tăng lên mà không gây hậu quả nghiêm trọng.

“Chúng ta có thể đi xa hơn bao nhiêu với mức nợ này, không ai biết, nhưng đến một lúc nào đó, nếu chúng ta tiếp tục đi theo con đường này, một số niềm tin sẽ bị mất đối với khả năng trả nợ của chính phủ Mỹ, nghĩa là trả hết nợ khi đến hạn và tiếp tục trả hết nợ", ông Pongracic nói.

“Nếu chúng ta đạt đến thời điểm đó, nó sẽ dẫn đến một cuộc khủng hoảng kinh tế, như chúng ta đã thấy với Hy Lạp, vốn có tỷ lệ nợ trên GDP khoảng 150% trước khi họ xảy ra một cuộc khủng hoảng nợ công khổng lồ”.

Một số người có thể chỉ đơn giản là không đủ thông tin về nền kinh tế để thấy những điểm tương đồng như vậy, hoặc họ tưởng tượng rằng Mỹ sở hữu một bức tường lửa vì quy mô khổng lồ của nền kinh tế. Nhưng những giả định như vậy ít nhất là ngây thơ và nhìn theo hướng nghiêm trọng nhất thì là đầy nguy hiểm, theo quan điểm của ông Pongracic.

“Mọi người nói Mỹ không phải là Hy Lạp, Hy Lạp là một quốc gia nhỏ bé và đồng USD là đồng tiền tệ dự trữ của thế giới, vì vậy bạn không thể so sánh hai nước này. Nhưng đó là vấn đề đối với nhận thức của những người cho vay đối với chính phủ, những người sở hữu trái phiếu. Nếu các trái chủ cảm thấy rằng chính phủ sẽ không trả nợ đúng hạn, chúng ta sẽ có một cuộc khủng hoảng nợ công”, ông nói.

Chuyên gia: Bầu cử giữa kỳ có thể là cơ hội cuối cùng để Mỹ ngăn chặn thảm họa kinh tế
Một nhân viên đếm tiền USD tại một quầy đổi tiền ở Jakarta, Indonesia, vào ngày 14/06/2013. (Ảnh: BAY ISMOYO / AFP qua Getty Images)

“Nếu chính phủ không thể tiếp tục vay, chính phủ sẽ, trong một thời gian rất ngắn, phải hạn chế chi tiêu của mình xuống ngang với [những gì nhận được trong] doanh thu thuế, và điều đó có nghĩa là ngân sách sẽ bị cắt giảm đột ngột. Đây sẽ là một khoảng thời gian khắc nghiệt phải đối phó, nó sẽ dẫn đến một cuộc khủng hoảng kinh tế”.

Theo ông Pongracic, vấn đề với tỷ lệ nợ trên GDP không chỉ đơn giản là chính phủ nợ rất nhiều tiền. Chi phí trả nợ ngày càng khó xử lý đối với bộ máy hành chính liên bang, và nó liên tục phải sử dụng nhiều hơn nữa ngân sách hoạt động của mình để trả lãi cho khoản nợ. Trong cuộc khủng hoảng năm 2008, và trong khoảng thời gian từ 2001 đến 2022 nói chung, điều này không quá khó thực hiện vì lãi suất ở mức thấp kỷ lục và điều này cũng đúng đối với lãi suất trái phiếu kho bạc do chính phủ phát hành.

Bức tranh ngày hôm nay hoàn toàn khác, với lãi suất trái phiếu kho bạc chuẩn đã tăng gấp đôi lên 4% từ 2%.

“Không chỉ khoản nợ tăng lên, nghĩa là phải trả lãi lớn hơn, mà lãi suất của khoản nợ đó cũng đang tăng lên. Vì vậy, chính phủ sẽ phải bắt đầu chi một phần ngày càng lớn ngân sách của mình để chỉ trả nợ, và họ sẽ phải đưa ra những lựa chọn khó khăn về nơi cắt giảm ngân sách của mình”, ông Pongracic nói.

Phủ nhận hoàn toàn

Với một vài trường hợp ngoại lệ, chính quyền Biden và các nhà lập pháp đang ở trong trạng thái “phủ nhận hoàn toàn” đối với bức tranh kinh tế đang xấu đi và đang hành động như thể việc chi tiêu cho bất kỳ số lượng chương trình nào cũng có thể tiếp tục vô thời hạn, ông Pongracic nói.

Trong khi Tổng thống Joe Biden đã công khai đưa ra bình luận vào ngày 21/10 về việc đã giảm thâm hụt liên bang xuống 1,4 nghìn tỷ USD trong năm tài chính hiện tại từ 2,8 nghìn tỷ USD trong năm tài chính 2021, điều quan trọng là phải hiểu đúng sự thay đổi này. Mức thâm hụt 1,4 nghìn tỷ USD vẫn còn khá cao và phần lớn sự sụt giảm liên quan đến việc loại bỏ dần một số chương trình và chính sách mà chính phủ áp dụng để chống lại COVID-19, ông Pongracic chỉ ra. Sự sụt giảm không cho thấy mức độ tiết kiệm và thận trọng cao hơn từ phía các nhà quản lý.

Chuyên gia: Bầu cử giữa kỳ có thể là cơ hội cuối cùng để Mỹ ngăn chặn thảm họa kinh tế
Tổng thống Mỹ Joe Biden phát biểu về “mức giảm thâm hụt lịch sử mà kế hoạch kinh tế của ông đang đạt được”, trong lúc Giám đốc Hội đồng Kinh tế Quốc gia Brian Deese (ngoài cùng bên trái) và Chủ tịch Hội đồng Cố vấn Kinh tế Cecilia Rouse lắng nghe tại Phòng Roosevelt của Tòa Bạch Ốc vào ngày 21/10/2022 ở Washington, DC, Mỹ. (Ảnh: Alex Wong / Getty Images)

Ông nói: “Tổng thống Biden đang khoe khoang về mức giảm thâm hụt lớn nhất trong lịch sử, đó là sự thật, nhưng đó chỉ là do nó đã bắt đầu ở mức cực kỳ cao".

Bên cạnh ví dụ về Hy Lạp năm 2009, ông Pongracic cho biết các xu hướng hiện tại và kết quả có thể xảy ra khiến ông nhớ lại những gì đã xảy ra với đất nước Nam Tư sau cái chết của nhà lãnh đạo quốc gia, Nguyên soái Josip Broz Tito, vào ngày 04/05/1980.

Ông Tito đã sử dụng sức hút đáng kể của mình để thu hút những người cho vay và vay một số tiền lớn, nhưng sau khi ông qua đời, Quỹ Tiền tệ Quốc tế và các chủ nợ khác yêu cầu các khoản nợ của quốc gia này phải được thanh toán, theo ông Pongracic. Điều này đã khiến chính phủ phải in một lượng tiền khổng lồ để trả cho những người cho vay, vào cuối những năm 1980 đã dẫn đến một trong những trường hợp siêu lạm phát nghiêm trọng nhất trong thế kỷ qua, kinh tế sụp đổ, và một cuộc nội chiến khiến 250.000 người chết.

Liệu nước Mỹ có thể thay đổi?

Các nhà kinh tế khác phần lớn đồng ý với ông Pongracic về các bước mà một đa số giả định theo đảng Cộng hòa có thể làm theo kể từ tháng 1 trở đi để đưa nước Mỹ thoát khỏi tình trạng kinh tế khó khăn.

“Tôi nghĩ rằng chính sách tài khóa và điều tiết có thể đóng vai trò chính trong việc ngăn chặn lạm phát. Tôi tin rằng những nỗ lực tài khóa của Tổng thống Ronald Reagan vào đầu những năm 1980 là quan trọng hơn [các nỗ lực của] Chủ tịch Cục Dự trữ Liên bang Paul Volcker”, ông Brian Domitrovic, giáo sư lịch sử tại Đại học Bang Sam Houston, nói với The Epoch Times, đề cập đến thời điểm Fed nâng lãi suất lên đến gần 20% để giảm lạm phát tăng cao.

Ông Domitrovic nói: “Các cải cách tài khóa như cắt giảm thuế suất cận biên… và bãi bỏ quy định có tác động lớn đến việc tăng sản lượng, dẫn đến hạ giá”.

Ông Gary Wolfram, một đồng nghiệp của ông Pongracic tại Hillsdale College, cho biết việc giảm mạnh thâm hụt liên bang có thể là cách duy nhất để kiềm chế lạm phát.

Ông Wolfram nói: “Giải pháp dài hạn là giảm nợ bằng cách giảm chi tiêu thâm hụt".

Theo ông Jeffrey Haymond, giáo sư kinh tế tại Đại học Cedarville, tình hình hiện tại phần lớn là do chính quyền Biden và những thói quen hoang phí của họ, cũng như sự phản đối của họ đối với các đường ống dẫn mà ngành năng lượng phụ thuộc từ lâu. Ông Haymond nhận thấy xu hướng mạnh tay đang chuyển sang lĩnh vực quản lý tài chính, nơi các hướng dẫn từ SEC có giọng điệu gay gắt hơn đáng kể so với dưới thời các Tổng thống trước.

“Vấn đề không chỉ ở ông Biden, mà là chính quyền Biden, vốn cam kết với kế hoạch chính sách này, một kế hoạch chống lại kinh doanh và chống lại sản xuất, và vấn đề lớn hơn phạm vi của ngành dầu và khí; nó được minh chứng bởi cuộc tấn công của Ủy ban Chứng khoán và Giao dịch đối với vốn cổ phần tư nhân [vốn tư nhân: vốn của các công ty trách nhiệm hữu hạn không được niêm yết công khai]. Họ đang cố gắng thay đổi các quy tắc về lĩnh vực đó ngay tại thời điểm hiện tại”, ông Haymond nói. Ông Haymond đã ám chỉ tới những nỗ lực đang được tiến hành từ phía cơ quan này và Ủy ban Giao dịch Hàng hóa Tương lai nhằm siết chặt các yêu cầu báo cáo đối với các cố vấn đầu tư và trao cho các cơ quan quản lý quyền lực được mở rộng một cách triệt để đối với lĩnh vực quỹ đầu tư tư nhân.

Tạo ra khủng hoảng

Theo ông Haymond, chính quyền vẫn đảm bảo duy trì việc giám sát đối với những lĩnh vực rộng lớn của nền kinh tế và cuộc sống của người dân. Điều này được thể hiện khi Bộ trưởng Y tế và Dịch vụ Nhân sinh Xavier Becerra tuyên bố vào ngày 13/10 rằng COVID-19 vẫn tiếp tục tạo nên tình trạng khẩn cấp y tế công cộng.

“Việc tiếp tục áp dụng tình trạng khẩn cấp COVID-19 cho phép họ cung cấp nhiều lợi ích hơn cho những người đang tham gia chương trình Medicaid, dẫn đến việc nhiều người hơn không thể quay trở lại lực lượng lao động vì họ đang kiếm được nhiều tiền hơn, trên thực tế là bằng việc nhận trợ cấp thất nghiệp. Việc dừng tình trạng khẩn cấp sẽ buộc họ phải kiếm việc làm và thực sự là người sản xuất chứ không chỉ là người tiêu dùng. Ông Biden nói rằng ông ấy muốn giảm tỷ lệ thất nghiệp, nhưng thực tế là tỷ lệ tham gia lực lượng lao động đang rất tồi tệ”, ông nói.

Chuyên gia: Bầu cử giữa kỳ có thể là cơ hội cuối cùng để Mỹ ngăn chặn thảm họa kinh tế
Tổng thống Mỹ Joe Biden phát biểu trước khi bắt đầu cuộc họp với các nhà lãnh đạo từ Bộ Quốc phòng tại Phòng ăn Nhà nước của Tòa Bạch Ốc vào ngày 26/10/2022 tại Washington, DC, Mỹ. (Ảnh: Anna Moneymaker / Getty Images)

Nhìn chung, những chính sách này góp phần làm tạo ra một quốc gia được điều tiết quá mức và siêu phung phí, đang nhanh chóng trượt sâu vào nợ nần, với việc sụp đổ kinh tế là một khả năng thực tế trừ khi các nhà lập pháp đối lập có thể kiềm chế các xu hướng tồi tệ nhất và kiểm soát thâm hụt chi tiêu. Nhưng ngay cả trong tình huống tốt nhất, đây cũng là một viễn cảnh không chắc chắn, theo ông Haymond.

“Không ai nghĩ rằng đảng Cộng hòa sẽ nhận được 60 phiếu bầu tại Thượng viện. Họ có thể nhận được 52 hoặc 53. Nhưng họ thực sự cần 67 vì ông Biden sẽ phủ quyết bất kỳ thay đổi nào đối với kế hoạch chi tiêu”, ông nói.

Nhưng đảng Cộng hòa nên có thể ngăn chặn các luật mới, những thứ có thể làm cho vấn đề trở nên tồi tệ hơn. Với 53 phiếu bầu, họ nên có thể ngăn chặn các ứng cử viên do chính quyền Biden đưa ra và cắt giảm một số mức dư thừa tồi tệ nhất, ông Haymond nói.

Bài viết chỉ phản ánh quan điểm của tác giả, không nhất thiết phản ánh quan điểm của NTDVN.

Bảo Nguyên

Theo Michael Washburn - The Epoch Times

Tác giả Michael Washburn là một phóng viên ở New York chuyên viết về các chủ đề liên quan đến Mỹ và Trung Quốc. Ông có nền tảng về báo chí pháp lý và tài chính, đồng thời cũng viết về nghệ thuật và văn hóa. Ngoài ra, anh ấy còn là người dẫn chương trình podcast hàng tuần Reading the Globe (Đọc Trái đất). Các cuốn sách của ông bao gồm “Những câu chuyện đã được nhổ bật gốc rễ và những câu chuyện khác” (The Uprooted and Other Stories), “Khi chúng ta trưởng thành” (When We're Grownups) và “Người lạ, người lạ” (Stranger, Stranger).



BÀI CHỌN LỌC

Chuyên gia: Bầu cử giữa kỳ có thể là cơ hội cuối cùng để Mỹ ngăn chặn thảm họa kinh tế