"Tâm pháp" dạy con của Hoàng đế Khang Hy

Giúp NTDVN sửa lỗi

Trong suốt cuộc đời của mình, Hoàng đế Khang Hy là người siêng năng, cẩn trọng và dốc sức vì nước, với trí tuệ và tầm nhìn xa trông rộng của mình, ông đã nắm giữ việc triều chính trong 64 năm. Trong thời gian trị vì của mình, ông đã thực thi rộng rãi một nền chính trị nhân từ, và ban ân đức khắp nơi làm cho thiên hạ xuất hiện cảnh thịnh thế “vạn dân an khang, thiên hạ hưng thịnh”.

Khang Hy vị vua sáng suốt nhất trong thời kỳ cuối của chế độ quân chủ Trung Quốc, ông cũng là người chăm giáo dục con cháu nhất trong số các hoàng đế của tất cả các triều đại, vậy nên thế hệ con cháu của ông đều văn võ song toàn. Ông thực sự là một nhà giáo dục cực kỳ thành công trong lịch sử Trung Quốc.

Người con trai kế thừa của ông là Ung Chính, đã biên soạn những lời giáo huấn thường ngày của Khang Hy thành quyển “Đình huấn cách ngôn”, giúp chúng ta ngày nay có thể cảm nhận được sự chính trực, liêm chính của ông; hiểu được đạo tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ; cũng như giúp hậu thế lĩnh hội được ‘tâm pháp’ dạy con của vị hoàng đế nhân từ này.

Sửa đổi bản thân ngay chính

Khang Hy rất coi trọng việc chỉnh đốn quy phạm lời nói, cử chỉ và hành vi của các hoàng tử, ông phản đối việc cha mẹ nuông chiều con cái quá mức, nên đã khuyên răn rằng “nếu quá nuông chiều con cái, chúng không những ăn uống không đúng mực mà còn không thể chịu đựng được sự xâm chiếm của cái lạnh và cái nóng, sau này khi chúng lớn lên thành người không ngu thì cũng si”.

Khang Hy cấm hút thuốc và uống rượu, không nghiện ngập hay ham muốn. “Nhưng trẫm không phải là không biết hút thuốc. Khi còn nhỏ, ở nhà dưỡng mẫu, ta hút thuốc khá tốt. Bây giờ ta cấm mọi người dùng, thì làm sao thuyết phục được người khác? Vì vậy, ta sẽ không bao giờ sử dụng nữa”.

“Vốn là đàn ông dùng rượu, vì để cúng tế Thần, vì để phụng dưỡng người già, vì để đãi khách, những buổi đoàn tụ sum họp cũng dùng. Nên việc sử dụng rượu chắc chắn không ít. Tuy nhiên, uống rượu say sẽ sa đà, chìm đắm, đôi khi sẽ không lễ nghi, thế thì lại không được”. “Nếu trẫm có thể uống mà không nuốt mới là người thực sự không uống rượu. Phần lớn nếu nghiện rượu, tâm chí sẽ vì nó mà rối loạn và không hiểu lý lẽ, hoặc sẽ bị làm cho sinh bệnh, thực là thứ không có lợi ích gì với con người”, “vì thế trẫm chân thành chỉ bảo mọi người, những ai không đoạn dứt việc nghiện rượu, chính là hành vi loạn gây hại thân thể, chớ đừng ham mê”.

Khang Hy đã chỉ ra tác dụng của rượu là để cúng tế thần linh, kính phụng người già, mở tiệc chiêu đãi khách quý, bạn bè nên việc uống rượu cần có tiết chế và đúng dịp. Một khi đam mê, nghiện rượu, sẽ làm tổn hại đến chính bản thân sức khoẻ và làm loạn cả lời nói và việc làm của bản thân. Điều này hoàn toàn trái ngược với nội hàm của “văn hóa bàn rượu” thịnh hành thời hiện đại ngày nay, và nó đáng để chúng ta suy ngẫm sâu sắc.

Về vấn đề cơm ăn, áo mặc, Khang Hy chỉ rõ rằng nên “thường xuyên biết đủ”, và ông nói với các con của mình rằng “mặc dù là địa vị thiên tử cao quý, y phục chẳng qua cần phù hợp với cơ thể; dù của cải giàu có, nhưng bữa ăn hàng ngày, ngoại trừ được ban thưởng cho, thức ăn dùng cũng không được nhiều món”.

Khi giáo dục và dạy dỗ con, Khang Hy thường lấy bản thân ông làm gương, thông qua chính lời nói và hành động của ông, chứ không phải là lý luận suông.

Khang Hy cũng khuyến cáo các hoàng tử không được nói những lời ô uế, vì lời ra khỏi miệng sẽ làm tổn đức, “lời nói ô uế tuỳ tiện, khinh suất nói ra, sẽ gây tổn hại lớn”.

Về vấn đề dung mạo bề ngoài, Khang Hy đã yêu cầu con cháu cần thực hiện “Mọi người đi, ở, ngồi, nằm đều không được ngoái lại, liếc xéo mắt”. Con mắt là cửa sổ của tâm hồn, thường hay liếc mắt sẽ mang tới cảm giác làm việc thô tục, không đoan chính.

Khang Hy rất tỉ mỉ trong việc dạy dỗ con cái “Không được giễu cợt, cười nhạo tất cả những người khuyết tật”, “Khi trời mưa giông bão lớn, chớ bao giờ đứng dưới gốc cây to”, “Sinh hoạt và đi lại, các con phải chú ý giữ gìn vệ sinh sạch sẽ”, đọc thì trước mắt sẽ tự nhiên hiện ra hình tượng trưởng lão hiền từ.

Sắp xếp việc học

Khang Hy rất coi trọng việc học hành của các hoàng tử, ông đã đích thân tuyển chọn những người “lão thành, cẩn trọng”, “học vấn ưu tú đứng đầu” hoặc “thông thạo Nho học, người Mãn Châu và người Hán có nhân phẩm đoan chính và người có thể dìu dắt tốt”; họ sẽ là thầy giáo dạy dỗ cho các hoàng tử. Nơi học vỡ lòng sẽ được chọn ở phía đông nam cung Càn Thanh, nơi vua quản lý triều chính, để thuận tiện cho việc đích thân ông kiểm tra và giám sát việc học của các con.

Các hoàng tử dậy trước bình minh và không ngừng học tập tới đêm khuya. (Tranh Winnie Wang)

Ông tin rằng “làm người bề trên thì phải dạy con ngoan ngay từ thuở ấu thơ”. Các hoàng tử dậy trước bình minh và không ngừng học tập tới đêm khuya. Trong một năm liên tục “bất kể mùa đông, mùa hè” không có ngày nghỉ, và nội dung học rộng bao gồm nhiều môn học, ngoài các tác phẩm kinh điển của Trung Quốc, các hoàng tử còn cần học thư pháp và hội họa, âm nhạc, hình học, thiên văn học, cưỡi ngựa, bắn cung, bơi lội, cầm súng, v.v.

Khang Hy cho rằng con người ta có năng lực học hỏi cao khi còn nhỏ, nên ông chủ trương giáo dục sớm, “khi còn nhỏ, tinh thần chuyên nhất, linh hoạt; sau khi lớn lên thì suy xét tản mát bên ngoài”. Ông còn chỉ rõ “học quan trọng chủ yếu là hiểu rõ lý. Lý mà rõ thì trong tâm có chủ kiến, mà có thể tự phán đoán thị phi, chính tà”. Học và đọc sách không phải vì để truyền bá, mà để hiểu rõ đạo lý trong sách, khi hiểu được đạo lý thì tự nhiên có thể đưa ra suy xét chính xác đối với thị phi, chính tà.

Điều này rất khác so với phương pháp giáo dục thường được áp dụng ở thời hiện đại, nền giáo dục ở nhiều nước phương Tây đã đi lệch khỏi truyền thống và ngày càng trở nên “đơn giản hóa và chậm phát triển trí tuệ”. Mặt khác, các trường học dưới sự ảnh hưởng có giáo dục nhồi nhét, tẩy não, khiến học sinh bị biến thành những rô bốt không biết suy nghĩ độc lập, chỉ làm việc theo ý mình và cực đoan, mất đi khả năng phán đoán đúng sai thiện ác cơ bản nhất.

Khang Hy đã chỉ ra tầm quan trọng của việc đọc các bài thơ cổ, các tác phẩm kinh điển và lịch sử, đồng thời dạy con cháu của ông không được đọc các tiểu thuyết tầm thường: “Khi còn nhỏ học hành, nhất định không được đọc tiểu thuyết, những sự tình trong tiểu thuyết đều là biên diễn nên, không thật, khiến cho người ta xem hoặc tin nó là sự thật, và những kẻ xấu lại bắt chước làm theo”. Điều này rất giống với tình trạng trẻ em trong xã hội hiện đại nghiện truyện tranh, hoạt hình và trò chơi điện tử.

Về rèn luyện tài nghệ, Khang Hy khuyến khích con cháu phải có lòng dũng cảm, tiến về phía trước, “Người có chí cầu tiến, dũng mãnh tiến lên, trung thành vĩnh viễn không bao giờ lùi bước, thì làm sao có thể là người không thành công được?”

Thực tiễn đã chứng minh rằng việc giáo dục của Khang Hy rất thành công, ông không chỉ đào tạo ra những vị hoàng đế kiệt xuất như Ung Chính và Càn Long, khiến thời thịnh trị kéo dài hơn trăm năm, mà trong những người con trai và cháu trai của ông còn có người là nghệ sĩ, nhà khoa học, tướng lĩnh và các quan đại thần có năng lực.

Tu tâm

Điều quan trọng nhất của làm người là Thiện. Khang Hy tin rằng chỉ cần làm việc thiện, ắt sẽ được Thiên Thượng phù hộ, “nhân sinh tại thế, điều cần nhất duy chỉ có hành thiện. Kinh thư của các bậc Thánh nhân đều lưu lại những lời như thế, duy chỉ muốn người Thiện. Thần Phật răn dạy cũng chỉ có lấy Thiện dẫn dắt con người”, “Điều cần nhất của con người, duy chỉ có nỗ lực hành thiện. Có thể tận sức làm được ngũ luân và một lòng một dạ hành thiện, thì ông trời sẽ phù hộ, đền đáp cho điềm lành”.

Khang Hy tin rằng chỉ cần làm việc thiện, ắt sẽ được Thiên Thượng phù hộ. (Tranh Zhiqing)

Khang Hy cũng chủ trương nhẫn nại, “Trên đời không có gì là không thể vượt qua, chỉ cần nhẫn nại một chút sẽ cảm thấy không có chuyện gì”. Và khả năng nhẫn nại của bản thân ông cũng không hề tầm thường, Khang Hy có thể “không cần quạt, không cần tháo vương miện” trong cái nắng nóng gay gắt của mùa hè tháng sáu. Định lực như vậy quả là hiếm thấy trong xã hội hiện đại.

Khang Hy dạy các hoàng tử bất cứ lúc nào cũng phải quy chính tư tưởng của mình, ông cho rằng “chỉ một niệm nhỏ nhoi trong lòng không phù hợp với thiên lý, nó là vì ‘ham muốn’ con người, nên cần phải “ngăn ngừa từ lúc tư tưởng mới sinh ra, từ lúc cái tình còn chưa xuất hiện”, và luôn loại bỏ các tư tâm dục niệm không tốt. Mong muốn và tư tưởng phải hòa hợp với Đạo, “chỉ cần tâm không bị tai, mắt, mũi, miệng chi phối, thì mới có được bình tĩnh”. Nếu trong lòng vứt bỏ những ham muốn và ảo tưởng xấu dư thừa, nội tâm sẽ tự nhiên có được sự bình yên và thoải mái thực sự.

“Con người chỉ có một trái tim, tâm nổi lên là vì suy nghĩ và lo lắng. Một suy nghĩ đúng hay không chỉ là trong tích tắc. Nếu một suy nghĩ sai, sẽ biết ngay lập tức, và liền sửa lại, sẽ không bao giờ xa rời Đạo”. Phân tích của Khang Hy về tu tâm rất tương đồng với tu luyện tâm tính của Chính Pháp và chính Đạo, khiến người ta không thể không xúc động.

Lòng thành chính trực

Trong xã hội hiện đại, nhiều người dường như thờ Phật chỉ để mong Phật phù hộ, tránh tai ương, thi đỗ, phát tài và sinh con trai. Thậm chí, nhiều người còn chi mạnh tay để giành được cơ hội vào thắp hương trong chùa, nhưng trong đó cũng có không ít người thật lòng tin vào Thần, Phật. Nhưng cách “kính Phật” như vậy có khác gì so với những người bình thường muốn tạo dựng quan hệ đi cửa sau? Chúng ta cứ thử tưởng tượng xem, nếu một kẻ sát nhân phạm mọi tội ác mà dâng tài sản hàng trăm triệu cho một ngôi chùa, lẽ nào Đức Phật cho hắn được viên mãn đắc chính quả?

Trong quá trình phát triển của lịch sử, con người đã dần quên đi nội hàm của việc kính Phật. Trước tình huống đó, Khang Hy đã căn dặn con cháu của mình rằng: “Tuy nhiên, tấm lòng tôn kính quỷ Thần không phải vì việc hoạ phúc, mà là vì toàn tâm chính khí”, “trẫm từ nhỏ đăng cơ, phàm là cúng tế đàn, lễ Thần Phật, nhất định mang tâm thành kính”.

“Hễ là người có thiện niệm, trời ắt ban phúc lộc, ban thiện báo. Ngày nay, con người lần tràng hạt và niệm Phật, vì cố ý muốn làm việc thiện, không bỏ ý nghĩ xấu thì lần tràng hạt có ích gì?”. “Kính trọng Thần Phật, duy chỉ ở tâm ta mà thôi”.

Khang Hy đối với Thần Phật mang tâm chân thành, không phải để tránh hoạ cầu phúc, mà vì phẩm cách ngay chính, nếu trong lòng có ác niệm thì tay lần tràng hạt và miệng niệm Phật hiệu liệu có ích lợi gì? Tư tưởng kính Phật không phải để cầu Phật mà để tu thân là cảnh giới chỉ có những người chân chính tu luyện mới có được.

Hoàng đế Khang Hy, với trí tuệ phi thường và sự hiểu biết sâu rộng về văn hóa truyền thống, đã dẫn dắt thế hệ sau, dạy họ phép tắc, uốn nắn tâm chí, tinh luyện họ bằng học thức, tăng cường thể lực và đích thân thực hành nền giáo dục chính thống Trung Hoa. Ông đã lưu lại cho hậu thế “tâm pháp” giáo dục và sự hoà hợp thông suốt của văn hóa truyền thần. Đây quả thực là chìa khóa vàng để con người hiện đại tìm trở về giáo dục truyền thống.

Minh An
Theo Secretchina

Văn hoá Giáo dục


BÀI CHỌN LỌC

"Tâm pháp" dạy con của Hoàng đế Khang Hy