Màu tím lay động lãng mạn bảo vệ hương thơm của sự duyên dáng

Giúp NTDVN sửa lỗi

Những bông hoa nhỏ hình bông lúa nở lặng lẽ, thân và lá mảnh mai đung đưa nhẹ nhàng, oải hương trang nhã xinh đẹp và thanh lịch khắp mọi nơi, hòa thành một biển hoa tốt tươi nhảy múa theo gió, và những con sóng xanh tím tầng tầng nhấp nhô, hương thơm thấm tận tâm can, hương xa càng thanh dịu. Cảnh đẹp như thơ như họa huyền bí và ảo mộng như thế, làm say lòng người và đọng lại nhiều dư vị.

Hoa oải hương, còn được gọi là "cây nước hoa tĩnh lặng", vốn được ca ngợi là "hoàng hậu của hương thơm và thảo dược". Loài hoa này mọc nơi hoang dã ở chân núi phía nam của dãy Alps, dọc theo bờ biển Địa Trung Hải, cũng như ở Tây Ban Nha và Bắc Phi. Hoa oải hương là loại cây được trồng chính trong các khu vườn của các tu viện y học ở Châu Âu vào thế kỷ 13. Ngày nay, vùng Provence ở Pháp, Tennessee ở Hoa Kỳ, Hokkaido ở Nhật Bản và Y Lê ở Trung Quốc là 4 khu vực hoa oải hương lớn nhất trên thế giới. Mùa hoa nở thường từ giữa tháng 6 đến cuối tháng 8, còn mùa hoa của hoa oải hương ở Úc ở Nam bán cầu là từ tháng 12 đến tháng 3 năm sau.

Chỉ là tình yêu? Truyền thuyết còn kỳ lạ hơn

Hương thơm lãng mạn của biển hoa oải hương cuộn trào, và sắc tím u buồn dưới ánh trăng đã mê hoặc những chàng trai và cô gái trên thế giới. Có rất nhiều truyền thuyết và các bài hát dân gian về hoa oải hương được lưu truyền ở châu Âu. Trong đó, có "Oải hương đại diện cho tình yêu đích thực" là bài thơ trữ tình nổi tiếng nhất trong thời kỳ của Nữ hoàng Elizabeth (1533-1603). Theo ngôn ngữ các loài hoa, hoa oải hương mang ý nghĩa “đợi chờ tình yêu”, nghĩa là thà thiếu còn hơn lạm dụng, dẫu có tương tư xa cách muôn núi ngàn sông, trải qua bao ma nạn cũng phải đợi chờ tình yêu chân thật trong tim, kiên trì trung trinh không thay đổi. Người ta sử dụng hoa oải hương xông hương lên váy cô dâu, và rắc hoa oải hương trong lễ cưới để bày tỏ sự chúc phúc.

Hoa oải hương
Hoa oải hương (Shutterstock)

Tuy nhiên, hoa oải hương không chỉ liên quan đến tình yêu. Tên tiếng Anh "lavender" của hoa oải hương có nguồn gốc từ tiếng Latinh "Lavare", có nghĩa đen là thanh tẩy, tẩy tịnh, và nó chứa đựng ý nghĩa sâu xa là xóa bỏ tội lỗi, thói tật, sỉ nhục và hận thù.

Truyền thuyết kể rằng, Đức Mẹ Maria đã giặt quần áo của Chúa Hài đồng Giê-su, và treo chúng lên những bông hoa. Vì vậy, hoa oải hương được phú cho sự tinh khiết và vẻ đẹp thuần khiết của thiên thượng. Người ta còn kể rằng, Đức Mẹ Maria đã giặt quần áo của Chúa Jesus bằng nước ngâm hoa oải hương, từng cầu nguyện trước hoa oải hương. Vì vậy, hoa oải hương có hương thơm lâu dài và có tác dụng đuổi ma trừ tà.

Ngay cả trong câu chuyện tình yêu được lưu truyền ở Provence, hoa oải hương được dùng để thử lòng chân thành. Mùi hương của hoa oải hương làm những thứ không thanh tịnh lộ nguyên hình. Điều kỳ diệu nổi bật là nó giống các nàng Tiên tí hon có thể phát hiện ra sự giả dối, cũng như chế ngự tà ma.

Trời ban cho loài hoa thơm bảo vệ loài người

Người Hy Lạp cổ đại dùng nước sắc hoa oải hương để làm sạch vết thương, giảm viêm và giảm đau. Người La Mã cổ đại thích cho hoa oải hương vào nước tắm thư giãn, giảm mệt mỏi. Trong hàng ngàn năm, người ta luôn sử dụng hoa oải hương như một phương thuốc chữa trị các bệnh ngoài da (bỏng, phỏng, tê cóng, viêm da, vẩy nến, v.v.), và là một trong những công cụ quan trọng để xông hương tẩy uế.

Thắp hương ban đầu được sử dụng trong các nghi lễ tôn giáo thờ cúng Thần. Chẳng hạn như tế trời đất ở các nước Á Đông. Trong chương 30 của sách “Cựu ước - Xuất Ai Cập ký”, Thượng Đế nói với Moses rằng: “Phải dùng gỗ tạo giáp làm bàn thờ thắp hương”.

Phương Đông và phương Tây cũng vậy, cầu nguyện trong hương thơm, tâm niệm, tâm nguyện theo làn khói bay đến Thiên đình, sẽ được ân điển và phù hộ của Thần.

Hoa oải hương
Hình minh họa trong cuốn "Köhler's Medicinal Plants" năm 1897- Lavandula vera, là loại tinh dầu oải hương có chất lượng tốt nhất. (Phạm vi công cộng)

Từ giữa thế kỷ 14 đến đầu thế kỷ 18, trong những làn sóng bệnh dịch hoành hành khắp châu Âu, khoảng một phần ba số người (25 triệu người) chết vì bệnh cái chết đen (bệnh dịch hạch). Theo quan niệm của tôn giáo, khi đạo đức nhân loại phóng túng, suy bại đã khiến Thượng đế giáng tai họa xuống trừng phạt, giới y học không thể làm gì được, các phương pháp như xuất huyết, đỉa cắn, làm cho nôn, rửa ruột, đều lần lượt thất bại. Trong những người may mắn sống sót, có người đã cầu nguyện và hối lỗi, có người bận bịu giúp chôn cất người chết, và đốt một số cây cối để làm tan mùi hôi thối của các xác chết. Trong mặt nạ hình mỏ chim có nhét các cánh hoa hương liệu mà các bác sĩ khi bất lực đã đề nghị để xông hương, tốt hay xấu tùy theo số mệnh. Trong phòng bệnh treo hoa oải hương, cây hương thảo và cây xô thơm, thêm một bát giấm nóng để xông hơi và khử trùng, đẩy nhanh sự khuếch tán của hương thơm và loại bỏ độc tố chướng khí.

Năm 1665, bệnh dịch vượt qua eo biển Manche và lại quét qua Vương quốc Anh, cướp đi 100.000 mạng người chỉ riêng khu vực London. Thành phố trở nên thê thảm và u ám như một thành phố chết. Nhưng ở xưởng sản xuất nước hoa oải hương ở thị trấn nhỏ Berklesberg, không ai bị nhiễm bệnh. Những người thợ da làm găng tay ở Grasse, Pháp thường ngâm da với dầu oải hương, cũng đã thoát khỏi bệnh dịch hoành hành. Vai trò của hoa oải hương trong việc thanh lọc không khí, loại bỏ mầm bệnh và ngăn ngừa dịch bệnh đã dần được nhiều người biết đến. Điều đó chỉ ra rằng, hương thơm của hoa oải hương có thể xua đuổi bọ chét lây lan bệnh dịch, thậm chí ruồi, muỗi, rận, và chuột đều sẽ bỏ đi.

Hoàng gia Pháp đi đầu trong các xu hướng thời trang mới và thúc đẩy các nhu cầu. Thành phố Grasse của Pháp đã phát triển thành một cơ sở sản xuất nước hoa thịnh vượng - ngày nay là thủ đô nước hoa của thế giới.

Nến thơm, trà hoa thấm tâm can khiến người dễ chịu

Trà hoa oải hương bồi bổ cơ thể và nuôi dưỡng phổi, lưu lại hương thơm cho môi và răng, tinh thần khí khoái. (Shutterstock)

Hoa oải hương ưa môi trường nhiều nắng, thoáng gió, thích hợp với đất cát pha trung tính. Là cây thân thảo sống lâu năm, oải hương chịu lạnh và chịu hạn cực tốt, chịu được đất cằn cỗi, chịu mặn, nhìn có vẻ yếu ớt nhưng thực chất lại rất cứng rắn. Ở các sợi lông trên toàn thân có tuyến dầu, khi hoa tàn, toàn thân vẫn tỏa mùi thơm dễ chịu, thân và lá của hoa có thể dùng làm thuốc chữa bệnh. Hoa oải hương vừa mang tính thực dụng, vừa có vẻ đẹp rất được ưa chuộng, không chỉ được trồng với số lượng lớn trong vườn, ruộng mà còn trồng rải rác các lối đi trong sân và có thể trồng trong chậu để ngắm cảnh.

Có rất nhiều giống hoa oải hương, chủ yếu được chia thành ba loại: hoa oải hương lá hẹp, hoa oải hương lá rộng và hoa oải hương lai. Trong đó, loại tinh dầu có chất lượng tốt nhất là oải hương angustifolia, mọc trên núi ở độ cao một nghìn mét. Hoa oải hương chủ yếu có màu tím xanh, còn có màu phấn hồng và trắng! Thu hút ong say mê quên về, bướm bay lượn quanh.

Trà hoa oải hương tăng cường sinh lực cho phổi, ức chế vi khuẩn và giải độc, những cảm giác khó chịu như cảm lạnh, ho và đau đầu sẽ sớm biến mất. Hoa oải hương còn được sử dụng để làm nước sốt và làm bánh ngọt. Đặt cành hoa oải hương khô vào gối có thể cải thiện chứng mất ngủ. Đặt một gói hoa oải hương trong tủ quần áo để ngăn ngừa sâu và bọ, đồng thời lưu lại hương thơm trên quần áo. Tinh dầu oải hương được dùng để chăm sóc da, làm đẹp, tắm, xông hương là cách thư giãn thoải mái nhất cho phụ nữ tại nhà. Nó còn giúp điều hòa cảm xúc và chăm sóc sức khỏe tinh thần.

Vào một đêm đông lạnh giá, thắp nến thơm để lan tỏa hương thơm cho căn phòng, gia đình ngồi quây quần bên nhau trong bữa cơm tối, dưới ánh nến dịu nhẹ, uống từng ngụm nước chậm rãi, mỉm cười, hạnh phúc, ấm áp tình thân.

Ngoài cửa sổ, tuyết rơi, đêm đã về khuya, người mẹ mang cây nến thơm đến khuê phòng, để hương thơm Phật thủ, hoa oải hương và hoa cúc đưa con gái đi vào giấc ngủ yên bình.

Đêm dưới ánh nến ấm áp và lãng mạn. (Shutterstock)

Ẩm thực Pháp, nến thơm oải hương (1), và nghi thức ăn uống bắt nguồn từ thời vua Louis XIV (1638-1715), vị vua Mặt trời, hương vị tao nhã và lãng mạn của nó làm say lòng người. Louis XIV lần đầu tiên đề xuất sử dụng dầu thực vật tự nhiên nguyên chất với hương thơm độc đáo để làm nến, và ông cũng đã tự tay làm ra một loại nước hoa diên vĩ (Iris). Khi hàng ngàn ngọn nến thắp sáng Cung điện Versailles, hương thơm tràn ngập, vàng ngọc rực rỡ, khiến cả thế giới phải sửng sốt chấn động.

Trong lễ hội trung thu ở làng quê, các cô gái đội vòng hoa múa hát, bên cạnh là các chàng trai đệm đàn, tiếng sáo du dương, tiếng đàn luýt (2) dịu dàng, tiếng trống bung bung, làn điệu thật giản dị và đẹp đẽ. Những cô gái nhảy múa với những chiếc váy bồng bềnh, liên tục hát những câu hát về các loài hoa như cúc vạn thọ, oải hương, hương thảo, ban Âu, cỏ xạ hương, cây xô thơm và mùi tây, những thứ có thể mang lại sức khỏe và may mắn... Họ tin rằng mình đã được thừa hưởng sự chăm sóc tuyệt vời của tổ tiên. Từ thế hệ này sang thế hệ khác: các loại thảo mộc được hái vào đêm Giao thừa có đặc tính chữa bệnh kỳ diệu. Tiếp theo là điểm nhấn truyền thống: đốt lửa trại, xua đuổi hắc ám, tà ác, đón ánh nắng xuân.

Cô bé đội vòng hoa oải hương. (Shutterstock)

Vào ngày Lễ Thánh John (3) ở Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha, các tín đồ đã rải rất nhiều hoa oải hương trên sàn nhà thờ để xua đuổi tà ma. Ở Tuscany, Ý, cài nhành hoa oải hương lên áo là một phong tục cổ xưa để trừ tà.

Oải hương cũng là quốc hoa của Bồ Đào Nha, đẹp như tranh vẽ, nhiều tác dụng, và mang lại lợi ích kinh tế cao. Hoa oải hương thường được sử dụng làm nguyên liệu cho các vật dụng hằng ngày như xà phòng, nước vệ sinh, dầu gội đầu, tinh dầu và kem dưỡng da mặt.

Giai nhân hương thơm, đức nhuận tâm hương

Cho dù vào thời kỳ hoàng kim của Cách mạng Công nghiệp và Đế chế Anh, người Anh vẫn bảo thủ và hoài cổ. Những người nghệ sĩ trở về với thiên nhiên, những thơ ca và hội họa cổ điển càng gây tiếng vang rộng rãi. Trong quá trình đô thị hóa, với hệ thống ống khói và máy móc ầm ầm, những thiệt hại nặng nề do dịch tả gây ra đã buộc người dân phải đối mặt với các vấn đề như ô nhiễm sông và an toàn nước uống. Đồng thời thúc đẩy việc thực hiện Luật Y tế công cộng, Luật Cứu trợ người nghèo và Nhà ở. Vào giữa thế kỷ 19, nước Anh lần lượt bắt đầu xây dựng các công viên.

Nữ hoàng Victoria (trị vì từ 1837 đến 1901) không chỉ đặt những bó hoa oải hương trong cung điện, mà còn thúc đẩy mạnh mẽ việc trồng hoa oải hương. Những trang viên oải hương nông thôn của giới quý tộc thì khỏi phải nói, gần Đồi Hoa oải hương ở Nam Luân Đôn, cũng có những vườn hoa oải hương, con đường hoa oải hương (một đường mòn trang trại cũ), hoa oải hương có thể tẩy trừ rất lớn ( các sản phẩm tẩy rửa, khử mùi và khử trùng…)

Phụ nữ thích mặc áo dài màu xanh tím quý phái và lãng mạn, có ren ở viền cổ và cổ tay áo, thanh lịch, trang nhã và xinh đẹp. Các cô gái thích màu hoa oải hương hồng nhạt, váy phồng với dây đai họa tiết hình bướm, thanh khiết, ngọt ngào, nhanh nhẹn.

Tình yêu và sự hòa hợp của Nữ hoàng Victoria và Hoàng tử Albert thật đáng ngưỡng mộ. Từ nhẫn đính hôn, váy cưới trắng, đến cây thông Noel và quà sinh nhật, những phong tục tưởng như tự nhiên này, giờ đây đã trở nên phổ biến khắp thế giới, là nhờ cặp đôi hoàng gia này. Hôn nhân và tình yêu, giáo dục con cái, và phong cách tài chính khắt khe của họ có thể được coi là hình mẫu cho các gia đình trung lưu ở Anh vào thế kỷ 19.

Thời đại Victoria nổi tiếng với việc ủng hộ việc tu dưỡng đạo đức và sự khiêm tốn, lễ phép, coi trong phong độ quý tộc cao quý và phẩm chất thục nữ. Những quý tộc, thân sĩ môn đang hộ đối đương nhiên là tốt, tầng lớp trung lưu không ngừng lớn mạnh nắm giữ địa vị kinh tế và ảnh hưởng chính trị. Những người nhân tài siêng năng và chuyên nghiệp, có trách nhiệm, cũng là những ứng cử viên tốt để làm vợ hoặc chồng. Hình ảnh những người vợ hiền mẹ tốt, và những người chồng trung thành trong các tác phẩm văn học được đón nhận nồng nhiệt. Nhìn chung, người dân quan tâm đến hôn nhân và gia đình, tỷ lệ kết hôn và tỷ lệ sinh liên tục tăng. (4)

Ngoài các bữa tiệc khiêu vũ, trà chiều là sự kiện xã hội phổ biến nhất. Trong buổi tiệc trà ngoài trời đầu mùa thu, nàng tiểu thư đã gặp tân lang tương lai của mình. Phong thái của cô ấy, nhấp một ngụm nhẹ và chậm rãi, thật dễ chịu, điều này làm tăng thêm vẻ đẹp cho chén trà bằng gốm xương trong như pha lê, những sợi tóc mai vàng óng ả và khung cảnh xanh tươi đằng sau bộ váy áo trắng của cô gái. Cô hỏi bà chủ cách nướng bánh, nghe khách khứa giao lưu về nghệ thuật làm vườn, nhẹ nhàng, tươm tất, nhàn nhã và thanh thản. Khi anh bước tới, cô khẽ mỉm cười ngượng ngùng, không chút ngạc nhiên, như đã đợi anh, đôi mắt thăm thẳm như hồ nước chan chứa những lời nói của loài hoa tím biếc.

Hoa oải hương
Hương thơm lãng mạn của hoa oải hương làm mê mẩn các chàng trai và cô gái trên thế giới. Ngôn ngữ hoa của loài hoa oải hương là "đợi chờ tình yêu". (Shutterstock)

Trong suy nghĩ của nhiều người châu Âu, hoa oải hương không chỉ tượng trưng cho tình yêu đích thực, mà còn là biểu tượng của sự thuần khiết và lòng biết ơn, đem lại phẩm hạnh thiện đức tốt đẹp, an hòa, là biểu tượng của một người phụ nữ tốt đẹp hiếm có.

Với những sản phẩm điện tử đang chiếm dụng không gian sống, và tình trạng ô nhiễm môi trường nghiêm trọng như dịch bệnh đang hoành hành khắp thế giới, chúng ta hãy sống chậm lại, suy ngẫm về lối sống đã qua, và quay về với những giá trị truyền thống và giản dị. Nhà tiên tri của sông Rhine, Hildegard von Bingen (1098-1179) tin rằng, hầu hết bệnh tật là do những sai lầm tâm linh gây ra, những căn bệnh khiến con người phải suy ngẫm lại. Trong vở kịch tôn giáo (Ordo Virtutu), kể về những cuộc đấu tranh khác nhau chống lại ma quỷ để có được sự vĩnh cửu của linh hồn.

Tạo hóa thậm chí đã sắp xếp cẩn thận cho nhân loại, và Ngài cũng đã cử các vị vua, nhà thông thái và tu sĩ vào các thời điểm khác nhau để truyền bá phúc âm, giúp mọi người vượt qua khó khăn.

Cánh đồng hoa oải hương Pháp. (Shutterstock)

Ghi chú:

[1] Cire Trudon, người làm nến thơm cho vua Louis XIV, là một thương hiệu cổ điển và huyền thoại lâu đời. Đây là nhà sản xuất đầu tiên cung cấp nến cho hoàng gia Pháp và các nhà thờ. Napoléon cũng ủy quyền cho Cire Trudon thiết kế một loại nến thơm đặc biệt cho con trai mình.

[2] Đàn luýt, còn được gọi là đàn nguyệt, là một nhạc cụ dây gảy có cổ cong. Chủ yếu dùng để chỉ một loại nhạc cụ cổ được sử dụng ở Châu Âu từ thời Trung cổ đến thời kỳ Baroque, được mọi người vô cùng yêu thích trong thời kỳ này.

[3] Ngày Thánh John: Ngày 24 tháng 6 là ngày lễ của Thánh John the Baptist, cùng ngày với phong tục dân gian Midsummer của Bắc Âu.

[4] Thời kỳ Victoria là thời kỳ đầu tiên dân số tăng nhanh ở Vương quốc Anh, tỷ lệ sinh tăng cùng với tỷ lệ kết hôn, từ 13,9 triệu người năm 1831 lên 32,5 triệu người năm 1901.

Thuần Chân
Theo Epochtimes

Tài liệu tham khảo:
"Materia Medica" Flora: Lavender: Em là sự chờ đợi ngàn năm của anh (Tác giả: Whisk)
Amy Best "Lịch sử sức khỏe con người"
[Bệnh dịch trong lịch sử] Roi của Chúa: Cái chết đen của Châu Âu (Tác giả: Đoàn Ngọc Thành)
Grasse - quê hương của nước hoa (Cơ quan Phát triển Du lịch Pháp)
Cire Trudon: Kể một đoạn lịch sử Pháp dưới ánh nến (Tác giả: Tiểu Mạc)
Claire Masset, "Văn hóa trà Anh"
Lawrence James "Lịch sử của tầng lớp trung lưu"
Lý Bảo Phương, "Nghiên cứu về cuộc sống hôn nhân và gia đình của tầng lớp trung lưu Anh trong thời đại Victoria"
Lucy Worsley "Queen Victoria: A Life as a Monarch and a Woman"



BÀI CHỌN LỌC

Màu tím lay động lãng mạn bảo vệ hương thơm của sự duyên dáng