Chính sách thắt chặt tiền tệ của Fed sẽ làm méo mó thêm nền kinh tế

Giúp NTDVN sửa lỗi

Trái với cách tư duy kinh tế phổ biến, việc Fed thắt chặt chính sách tiền tệ sẽ không thể sửa chữa được những sai lầm trước đây. Khái niệm lãi suất trung lập và trạng thái cân bằng chung của nền kinh tế mà Fed hướng tới hoàn toàn nằm trong tưởng tượng. Việc Fed can thiệp vào nền kinh tế chỉ có thể dẫn đến những lệch lạc trong việc phân bổ nguồn lực.

Fed thắt chặt chính sách tiền tệ nhằm sửa chữa sai lầm trước đó

Sau một thời gian dài áp dụng chính sách tiền tệ nới lỏng, Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) đã bắt đầu chuyển hướng sang thắt chặt tiền tệ. Vào ngày 04/05/2022, Fed đã tăng lãi suất chuẩn của mình thêm 0,50%, lên phạm vi mục tiêu khoảng 0,75% đến 1,00%. Đây là mức tăng lớn nhất kể từ năm 2000 và theo sau mức tăng 0,25% vào tháng 3 năm nay, mức tăng đầu tiên kể từ tháng 12/2018.

Nhiều nhà bình luận dự đoán ​​Fed sẽ tăng lãi suất vài lần trong năm 2022, nhằm đạt mức 2,90% vào đầu năm 2023. Bắt đầu từ tháng 06/2022, các nhà hoạch định chính sách của Fed cũng có kế hoạch thu hẹp danh mục tài sản trị giá 9 nghìn tỷ USD của Fed. Lý do chính đằng sau lập trường thắt chặt tiền tệ là do tốc độ tăng trưởng hàng năm của Chỉ số Giá tiêu dùng (CPI) tăng mạnh, ở mức 8,5% trong tháng 3 so với 2,6% vào tháng 3 năm ngoái.

Theo cách nghĩ phổ biến, vai trò của ngân hàng trung ương là duy trì nền kinh tế theo hướng tăng trưởng ổn định và bình ổn giá cả. Theo cách nghĩ này, nền kinh tế được coi giống như một con tàu vũ trụ, đôi khi trượt khỏi quỹ đạo tăng trưởng kinh tế ổn định và bình ổn giá cả.

Các nhà kinh tế chính thống tin rằng, khi hoạt động kinh tế chậm lại và trượt ra ngoài con đường tăng trưởng ổn định và bình ổn giá cả, ngân hàng trung ương nên thúc đẩy nó, dẫn dắt nền kinh tế trở lại con đường tăng trưởng ổn định. Việc thúc đẩy được thực hiện bằng chính sách tiền tệ nới lỏng - tức là hạ lãi suất và gia tăng tốc độ tăng cung tiền. Ngược lại, khi hoạt động kinh tế được cho là “quá mạnh mẽ”, thì để ngăn chặn tình trạng “quá nóng”, ngân hàng trung ương có nhiệm vụ “hạ nhiệt” nền kinh tế bằng việc thắt chặt chính sách tiền tệ hơn.

Điều này đồng nghĩa với việc tăng lãi suất và hạn chế việc bơm tiền vào nền kinh tế. Người ta tin rằng chính sách tiền tệ thắt chặt hơn sẽ đưa nền kinh tế vào quỹ đạo tăng trưởng kinh tế ổn định và giá cả được bình ổn. Do đó, có vẻ như việc áp dụng chính sách tiền tệ thắt chặt hơn có thể cân bằng những tác động do chính sách tiền tệ nới lỏng trước đó mang lại. Theo cách suy nghĩ này, ngân hàng trung ương rất cần theo dõi nền kinh tế vào mọi thời điểm và thực hiện những điều chỉnh cần thiết để giữ cho nền kinh tế tiếp tục tăng trưởng ổn định.

Thắt chặt tiền tệ sẽ không thể cân bằng được những tác động do nới lỏng tiền tệ

Tuy nhiên, chính sách tiền tệ thắt chặt không thể sửa chữa những tiêu cực của chính sách nới lỏng trước đó. Việc phân bổ sai nguồn lực do chính sách tiền tệ nới lỏng không thể được đảo ngược một cách đơn giản bằng cách thắt chặt tiền tệ. Theo ông Percy L. Greaves Jr., nhà biên soạn của cuốn “Nguyên nhân của cuộc khủng hoảng kinh tế và các bài tiểu luận khác trước cuộc Đại suy thoái” (The Causes of the Economic Crisis and Other Essays before the Great Depression): “Mises cũng đề cập đến một thực tế là giảm phát không bao giờ có thể sửa chữa được thiệt hại của thời kỳ lạm phát trước đó. Trong buổi hội thảo của mình, ông thường so sánh quá trình như vậy với việc người lái xe ô tô đã chạy đè qua một người và sau đó cố gắng khắc phục tình hình bằng cách lùi ngược lại trên người nạn nhân. Lạm phát gây ra những xáo trộn về của cải và thu nhập đến mức không thể đảo ngược các tác động. Sau đó, các thao túng có tính giảm phát đối với lượng tiền cũng là sự phá hoại đối với hoạt động của thị trường, được dẫn dắt bởi giá thị trường, tiền lương và lãi suất, cũng giống như các thao túng có tính lạm phát đối với lượng tiền”.

Chính sách tiền tệ thắt chặt hơn, mặc dù có khả năng làm suy yếu các loại bong bóng, nhưng cũng sẽ tạo ra các méo mó khác nhau, do đó gây ra tổn thất cho hoạt động tạo ra của cải. Lưu ý rằng chính sách tiền tệ thắt chặt hơn vẫn là một sự can thiệp của ngân hàng trung ương và nó không dẫn đến việc phân bổ nguồn lực phù hợp với những ưu tiên hàng đầu của người tiêu dùng. Do đó, không thể khẳng định rằng chính sách tiền tệ thắt chặt hơn có thể đảo ngược thiệt hại do chính sách có tính lạm phát gây ra.

Chúng tôi cho rằng bằng cách giải phóng nền kinh tế khỏi sự can thiệp của ngân hàng trung ương thông qua lãi suất và nguồn cung tiền, quá trình hủy hoại kinh tế sẽ chấm dứt và quá trình tạo ra của cải thực sự sẽ được củng cố. Với một lượng của cải lớn hơn, việc trung hòa các hoạt động phân bổ sai nguồn lực sẽ trở nên dễ dàng hơn nhiều. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng một số nguồn lực sẽ khó trung hòa hơn nhiều, do bản chất của chúng.

Ví dụ, nhu cầu về những tư liệu sản xuất nhất định và một số kỹ năng nhất định của con người có thể biến mất hoặc suy yếu đáng kể trong môi trường thị trường tự do mới. Việc thắt chặt tiền tệ cũng sẽ làm suy yếu các hoạt động kinh tế khác nhau xuất hiện trong môi trường tiền tệ nới lỏng trước đây, khiến việc thắt chặt tiền tệ có thể ảnh hưởng tới các bong bóng. Càng nhiều bong bóng được tạo ra trong giai đoạn tiền tệ nới lỏng, thì sự đổ vỡ sẽ càng lớn.

Lãi suất trung lập, mục tiêu của Fed, chỉ nằm trong tưởng tượng

Hầu hết các chuyên gia đều cho rằng trở ngại lớn trên con đường đạt được tăng trưởng ổn định và bình ổn giá cả là sự biến động của lãi suất quỹ liên bang quanh mức lãi suất trung lập. Lãi suất trung lập, được xác định, là lãi suất phù hợp cho việc bình ổn giá cả và cân bằng nền kinh tế. Các nhà kinh tế vĩ mô tin rằng, các nhà hoạch định chính sách của Fed cần phải điều chỉnh lãi suất quỹ liên bang theo lãi suất trung lập. (Theo quan điểm này, nguồn gốc chính của bất ổn kinh tế là sự chênh lệch giữa lãi suất thị trường tiền tệ và lãi suất trung lập).

Lưu ý rằng lãi suất trung lập được thiết lập ở điểm giao cắt giữa đường tổng cung và đường tổng cầu. Nếu lãi suất thị trường giảm xuống dưới mức lãi suất trung lập, hoạt động đầu tư sẽ mạnh hơn hoạt động tiết kiệm, có nghĩa là tổng cầu lớn hơn tổng cung. Giả sử rằng lượng cầu dư thừa được tài trợ bởi việc gia tăng các khoản vay ngân hàng, quá trình này dẫn đến việc tạo thêm tiền mới, từ đó đẩy mức giá chung lên cao.

Tuy nhiên, nếu lãi suất thị trường tăng cao hơn lãi suất trung lập, tiết kiệm sẽ mạnh hơn đầu tư, do đó tổng cung sẽ vượt tổng cầu, có nghĩa là các khoản vay ngân hàng và lượng tiền dự trữ sẽ bị co lại, và giá sẽ giảm. Do đó, bất cứ khi nào lãi suất thị trường phù hợp với lãi suất trung lập, nền kinh tế ở trạng thái cân bằng và không có áp lực tăng hay giảm đối với mặt bằng giá cả. Tuy nhiên, vấn đề chính là không thể xác định được lãi suất trung lập. Làm thế nào để biết lãi suất thị trường cao hơn hay thấp hơn lãi suất trung lập?

Mặc dù không thể xác định được lãi suất trung lập, các nhà kinh tế học chính thống tin rằng nó có thể được ước tính bằng các phương pháp gián tiếp. Để tìm ra mức lãi suất trung lập, các nhà kinh tế hiện sử dụng các phương pháp toán học phức tạp như bộ lọc Kalman.

Nhằm tìm hiểu con đường tăng trưởng ổn định, các nhà kinh tế học giả định sự tồn tại của đường tổng cung và đường cầu. Giao điểm của những đường này tạo ra cái gọi là trạng thái cân bằng được cho là tương ứng với con đường tăng trưởng của sự ổn định kinh tế.

Các đường tổng cung và đường cầu được trình bày trong kinh tế học đại chúng không bắt nguồn từ các dữ kiện thực tế mà từ tưởng tượng của các nhà kinh tế học. Dữ liệu được dùng làm cơ sở cho các đường cung và cầu hoàn toàn không đến từ thế giới thực - chúng chỉ là sự tưởng tượng. Theo Ludwig von Mises: “Điều quan trọng là phải nhận ra rằng chúng ta không có bất kỳ kiến ​​thức hoặc kinh nghiệm nào về hình dáng của những đường như vậy”.

Tuy nhiên, các nhà kinh tế vẫn tranh luận sôi nổi về các tính chất khác nhau của những đường vô hình này và tác động của chúng đối với các chính sách của chính quyền và ngân hàng trung ương, mặc dù trên thực tế, chúng không tồn tại.

Trạng thái cân bằng chung của nền kinh tế không tồn tại

Sự tồn tại của trạng thái cân bằng chung được mô tả bằng sự giao nhau giữa đường cung của nền kinh tế tổng thể với đường cầu của nền kinh tế tổng thể là một vấn đề đáng nghi ngờ. Khái niệm trạng thái cân bằng chỉ nên được áp dụng với các cá nhân.

Trạng thái cân bằng đối với hành vi có ý thức và có mục đích của các cá nhân không liên quan gì đến trạng thái cân bằng tưởng tượng được mô tả trong kinh tế học đại chúng. Thay vào đó, nó được thiết lập khi các cá nhân có thể đạt được các mục đích của mình.

Khi một nhà cung cấp thành công trong việc bán sản phẩm của mình ở một mức giá mang lại lợi nhuận, thì người đó được nhìn nhận là đã đạt đến trạng thái cân bằng. Tương tự, những người tiêu dùng mua những sản phẩm này đã làm như vậy để đạt được mục tiêu của họ. Một lần nữa, mỗi cá nhân trong bối cảnh riêng của mình đều đạt được trạng thái cân bằng bất cứ khi nào anh ta đạt được mục tiêu của mình.

Trong trường hợp không có sự can thiệp của ngân hàng trung ương, lãi suất được thiết lập sẽ phù hợp với các mục tiêu khác nhau của các cá nhân, không phải mong muốn của các nhà hoạch định chính sách của ngân hàng trung ương. Do đó, một số cá nhân có thể phát hiện ra rằng mức lãi suất mà họ sẽ phải trả thấp hơn nhiều so với mức họ sẵn sàng trả. Đối với một số cá nhân khác, lãi suất thị trường tự do có thể quá cao. Do đó, họ sẽ bị loại khỏi thị trường. (Người cho vay cận biên và người đi vay cận biên (những người vay và cho vay với mức cao nhất và thấp nhất) thiết lập lãi suất thị trường. Giao điểm của đường cung và đường cầu không thiết lập lãi suất thị trường)

Một khi các chính sách được áp dụng nhằm đạt được lãi suất trung lập - vốn được cho là phản ánh cái gọi là trạng thái cân bằng chung như được thiết lập bởi các mô hình toán học - thì điều này có thể mâu thuẫn với những gì thị trường tự do đã thiết lập. Kết quả là, điều này sẽ dẫn tới việc phân bổ sai nguồn lực và làm suy yếu quá trình tạo ra của cải thực tế, khiến nền kinh tế bị hủy hoại. (Lưu ý rằng bằng cách đặt ra mức lãi suất mục tiêu của quỹ liên bang, các nhà hoạch định chính sách của Fed đang hành động như thể họ có thông tin định lượng về mức lãi suất tương ứng dẫn tới tăng trưởng kinh tế ổn định và bình ổn giá cả)

Việc Fed can thiệp vào nền kinh tế sẽ dẫn tới khủng hoảng

Sự thất bại của các nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung khác nhau như Liên Xô cũ cho thấy nỗ lực của chính quyền trung ương trong việc thúc đẩy nền kinh tế đi theo quỹ đạo tăng trưởng đề ra bởi các quan chức chính quyền đã dẫn đến thảm họa kinh tế như thế nào. Thay vì tăng lãi suất để chống lại sự gia tăng mạnh mẽ của giá hàng hóa và dịch vụ, Fed nên bịt tất cả các kẽ hở có thể tạo ra tiền từ hư không.

Trái ngược với cách suy nghĩ kinh tế phổ biến, thiệt hại do các chính sách lạm phát gây ra không thể được hóa giải bằng các chính sách thắt chặt tiền tệ. Bản thân chính sách giảm phát là một chính sách can thiệp và nó sẽ tạo ra một hình thức phân bổ sai nguồn lực có hại khác.

Bài viết chỉ phản ánh quan điểm của tác giả, không nhất thiết phản ánh quan điểm của NTDVN.

Tác giả Frank Shostak là một tiến sĩ và là học giả tới từ Viện Mises. Công ty tư vấn của ông, Applied Austrian School Economics, cung cấp các đánh giá và báo cáo chuyên sâu về thị trường tài chính và nền kinh tế toàn cầu. Ông đã giảng dạy tại Đại học Pretoria và Trường Kinh doanh Sau đại học tại Đại học Witwatersrand.

Bảo Nguyên

Theo The Epoch Times



BÀI CHỌN LỌC

Chính sách thắt chặt tiền tệ của Fed sẽ làm méo mó thêm nền kinh tế