Chiến lược cảng của Trung Quốc định vị cho sự thống trị toàn cầu

Giúp NTDVN sửa lỗi

Kiểm soát các tuyến đường hàng hải trên toàn cầu là một bước đi chiến lược tất yếu để thành toàn cho ‘Giấc mộng Trung Hoa’. Trung Quốc đã giăng bẫy nợ và đổ tiền vào chiến lược thâu tóm cảng biển khắp toàn cầu chỉ trong gần một thập kỷ, thành công bành trướng quân sự, tăng quyền lực ngoại giao và kiếm bộn tiền từ chiến lược xuất sắc này. Một chiến lược thành công nhờ Mỹ và cả thế giới ngủ quên trước tham vọng của Giấc mộng Trung Hoa.

Kể từ khi Thế chiến thứ II kết thúc, Hải quân Hoa Kỳ chịu trách nhiệm duy trì mở cửa một cách có trật tự các tuyến thương mại hàng hải trên khắp thế giới. Hoa Kỳ đã phải chịu chi phí để thực thi trách nhiệm này, vì những tuyến đường thương mại đó là một phần quan trọng của trật tự quốc tế do Hoa Kỳ lãnh đạo; nó cũng là quyền lợi của Hoa Kỳ.

Kết quả, tất nhiên, nói theo cách của Hoa Kỳ. Các tuyến đường vận chuyển an toàn đã giúp thương mại toàn cầu tăng lên mức cao nhất trong lịch sử. Trật tự này cho phép các quốc gia buôn bán dầu mỏ, ô tô, nông sản và nhiều thứ khác một cách dễ dàng và an toàn.

Đổi lại, các quốc gia ở các khu vực xa xôi đã có quyền tiếp cận an toàn với các thị trường và hàng hóa trên khắp thế giới; nếu không có trật tự này, họ sẽ không bao giờ có được quyền lợi thương mại toàn cầu như thế. Nhiều quốc gia trên thế giới đã có lợi hơn nhiều khi được tiếp cận với các tuyến đường biển tự do và an toàn.

Một trật tự đã hình thành, an toàn, và khá công bằng đã khiến rất ít các lãnh đạo quốc gia thảo luận công khai về xác suất hoặc khả năng thay đổi trật tự ổn định này với hàng hải quốc tế.

Nhưng với sự trỗi dậy và tham vọng của Giấc mộng Trung Hoa, điều tưởng như không chắc chắn này lại có thể xảy ra, thậm chí còn sớm hơn sự tưởng tượng của các quốc gia khắp toàn cầu.

Một chiến lược thông minh để thách thức sức mạnh hàng hải của Hoa Kỳ

Trong cuộc hành quân dài hơi có chủ đích nhằm thay thế trật tự toàn cầu do Hoa Kỳ dẫn đầu, Trung Quốc đã theo đuổi một chiến thuật khác và khá thông minh đi kèm với một số lợi thế chiến lược nghiêm túc.

Các nhà hoạch định quân sự của Trung Quốc đã kết luận một cách đúng đắn rằng họ sẽ mất nhiều năm, nếu không muốn nói là hàng thập kỷ, để xây dựng và học cách sử dụng một lực lượng hải quân có thể chống lại Hải quân Hoa Kỳ. Ngay cả năm 2021, mặc dù đã có những bước tiến vượt bậc nhưng Hải quân Trung Quốc vẫn chưa bằng được sức mạnh của hải quân Mỹ.

Tuy nhiên, các nhà phân tích Trung Quốc có thể đã xem xét bản đồ toàn cầu về tất cả các tuyến thương mại nước ngoài. Và trong hoặc khoảng năm 2013, họ nhận ra hai sự thật đơn giản.

Thực tế đầu tiên là họ không phải cạnh tranh trực tiếp với Hải quân Hoa Kỳ để giành được lợi thế hơn. Thông qua Sáng kiến ​​Vành đai và Con đường (BRI) và Con đường Tơ lụa trên biển (MSR), cả hai đều được khởi động vào năm 2013, Trung Quốc bắt đầu mua các cảng hiện có trên khắp thế giới. Đó là một sự mở rộng hợp lý của nền kinh tế tăng trưởng dựa vào xuất khẩu khổng lồ của Trung Quốc.

Kiểm soát Bến cảng, không phải Đại dương

Làm như vậy cũng giúp họ có sự hiện diện đáng kể ở các quốc gia và khu vực thương mại quan trọng. Tuy nhiên, đáng chú ý là thông qua MSR, Trung Quốc có thể tiếp cận hàng hải không chỉ Đông Nam Á, mà còn tới châu Phi, và thậm chí cả châu Âu. Nhưng nó không chỉ đơn thuần là tiếp cận các tuyến đường biển đến các khu vực đó. Trung Quốc hiện sở hữu tất cả các cảng chính dọc theo các tuyến đường đó.

Quyền sở hữu của Trung Quốc đối với các cảng và đường thủy bao gồm những cảng có ý nghĩa chiến lược. Sau khi đặt chân được ở đó, Trung Quốc có thể tùy chỉnh cảng để phục vụ cho hoạt động giao thương của riêng mình, thậm chí có thể là các nhu cầu và lợi thế về quân sự hoặc tình báo. Nhưng hơn thế nữa, Bắc Kinh còn gây ảnh hưởng đối với nước sở tại, cũng như các quốc gia cần vận chuyển sản phẩm của họ qua các cảng thuộc sở hữu của Trung Quốc.

Bằng cách duy trì quyền kiểm soát đối với việc tiếp cận hàng hóa của các quốc gia trên thế giới, ảnh hưởng nước ngoài của Trung Quốc đã âm thầm, nhưng đáng kể, được mở rộng mà không cần một tàu chiến nào được bổ sung vào hạm đội của họ.

Giành quyền kiểm soát các cửa biển

Thứ hai là các cảng ở những vị trí chiến lược mà phần lớn thương mại trên thế giới đi qua được gọi là “cửa biển”. Các cửa biển có ý nghĩa chiến lược vì chúng là các cửa ngõ — hoặc thường là các điểm thắt hẹp — đến các đại dương và hoặc tới các thị trường quan trọng. Để tiếp cận các tuyến đường, tàu bè phải đi qua các cửa biển này.

Ví dụ, cảng của Trung Quốc tại Djibouti là con đường hàng hải hẹp ở cửa Biển Đỏ và tuyến đường tiếp cận phía nam đến kênh đào Suez, nối với biển Địa Trung Hải. Vị trí của cảng biển này có giá trị chiến lược rất cao; nó là một cửa biển tiếp cận hàng hải của Ấn Độ, Indonesia và nhiều quốc gia Phi Châu vào thị trường Âu Châu.

Các nhân viên Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc tham dự lễ khai trương căn cứ quân sự mới của Trung Quốc ở Djibouti hôm 01/08/2017. (Ảnh: STR / AFP qua Getty Image)

Có lẽ không có gì ngạc nhiên khi Djibouti cũng đã trở thành căn cứ quân sự ở nước ngoài đầu tiên của Trung Quốc; nếu không tính những căn cứ ở Biển Đông. Đó không chỉ là một cảng thông thương đơn thuần, mà nhờ có nó, Trung Quốc còn có thể hiện diện quân sự lớn ở châu Phi và đi kèm với hệ thống đường sắt trị giá 3.4 tỷ USD, cho phép vận chuyển và xuất khẩu tài nguyên thiên nhiên của châu Phi trở lại Trung Quốc.

Như vậy, cảng là nơi hiện diện của hải quân và quân sự để bảo vệ các nguồn lực quan trọng cho nền kinh tế Trung Quốc. Các chuỗi cung ứng tài nguyên chính được thiết lập tốt ở các thị trường Bắc và Trung Phi, cũng như các thị trường châu Âu và Trung Đông. Djibouti cho phép Bắc Kinh thể hiện sức mạnh và ảnh hưởng tại một trong những ngã tư có giao thương buôn bán nhiều nhất trên thế giới.

Quyền lực và ảnh hưởng của Trung Quốc từ Djibouti còn mở rộng đến các chuyến hàng dầu khổng lồ đến từ eo biển Hormuz gần đó, nơi mà Trung Quốc phụ thuộc vào. Trên thực tế, quyền sở hữu cảng là một đặc điểm cơ bản trong chiến lược thống trị toàn cầu của Trung Cộng, bao gồm các cảng Houston và Miami của Hoa Kỳ, cũng như Kênh đào Panama .

Rõ ràng là chiến lược cảng biển của Bắc Kinh dựa trên một thực tế đơn giản là bất kể hàng hóa và tàu bè có thể đến từ đâu, cuối cùng, họ sẽ cần đến một cảng để chuyển hàng hóa của họ ra thị trường. Ít nhất, việc giành được quyền kiểm soát các cảng trên khắp thế giới mang lại cho Trung Quốc đòn bẩy và doanh thu phí cảng cũng như sức mạnh để xác định tàu nào có thể cập cảng ở đó, v.v.

Rốt cuộc, ai cần một lực lượng hải quân toàn cầu để thực hiện các cuộc phong tỏa và kiểm soát thương mại khi bạn có thể làm điều tương tự trên toàn thế giới mà không cần triển khai một tàu hải quân nào hoặc bắn một phát súng?

Trung Quốc đã hưởng lợi rất lớn từ chiến lược rất thông minh này theo nhiều cách, giúp nó vượt mặt Hoa Kỳ và các đối thủ cạnh tranh khác. Vẫn còn phải xem Bắc Kinh quyết định khai thác triệt để lợi thế của mình khi nào và như thế nào, và Hoa Kỳ sẽ làm gì với điều đó.

Quan điểm trong bài viết này là của tác giả và không nhất thiết phản ánh quan điểm của NTDVN.

Tác giả James R. Gorrie hiện đang sống ở Nam California, là tác giả của “Cuộc khủng hoảng Trung Quốc” (Wiley, 2013). Ông cũng viết trên blog của mình, TheBananaRepublican.com.

Lê Minh

Theo The Epoch Times

Kinh tế Phân tích


BÀI CHỌN LỌC

Chiến lược cảng của Trung Quốc định vị cho sự thống trị toàn cầu