Cảnh giác với siêu vi khuẩn E. Coli đặc biệt nguy hiểm

Giúp NTDVN sửa lỗi

E. coli là một trong những mầm bệnh truyền qua thực phẩm phổ biến nhất được biết đến. Tuy nhiên, mức độ nghiêm trọng của các chủng E. coli khác nhau rất khác nhau và công chúng nên thận trọng với một loại E. coli đặc biệt nguy hiểm.

Các bệnh do thực phẩm, còn được gọi là ngộ độc thực phẩm, là một vấn đề sức khỏe cộng đồng nghiêm trọng. Mỗi năm, chúng khiến 48 triệu người mắc bệnh, 128.000 người nhập viện và 3.000 người tử vong.

E. coli là một trong những mầm bệnh truyền qua thực phẩm phổ biến nhất được biết đến. Tuy nhiên, mức độ nghiêm trọng của các chủng E. coli khác nhau rất khác nhau và công chúng nên thận trọng với một loại E. coli đặc biệt nguy hiểm.

E.Coli 101

Escherichia coli, còn được gọi là E. coli, là một trong những loại vi khuẩn phổ biến nhất được nhân loại biết đến. Phát hiện vào năm 1885, chủng vi khuẩn này đã được nghiên cứu vô số lần và nâng cao hiểu biết của chúng ta về thế giới vi mô.

Vi khuẩn E. coli mà chúng ta thường biết qua tin tức thuộc nhóm E. coli gây bệnh đường ruột (EPEC) và là mầm bệnh gây ngộ độc thực phẩm. Các bệnh do thực phẩm cũng bao gồm Salmonella và Norovirus (chịu trách nhiệm cho các đợt bùng phát dịch bệnh trên tàu du lịch gần đây).

Thông thường, nhiễm trùng E. coli xảy ra khi một người tiếp xúc với thực phẩm, động vật hoặc nước bị ô nhiễm. Nó thường chỉ gây đau bụng nhẹ hoặc tiêu chảy ngắn. Các triệu chứng khác bao gồm co thắt dạ dày, buồn nôn, nôn và sốt.

Điều trị điển hình thường bao gồm nghỉ ngơi, bù nước và hỗ trợ dinh dưỡng. Bệnh thường tự giới hạn vì cơ thể bình thường có thể tự khỏi. Việc sử dụng kháng sinh là phổ biến trong điều trị E. coli, nhưng kháng kháng sinh cũng là một vấn đề trên toàn thế giới. Tuy nhiên, các dạng nghiêm trọng của E. coli là các biến thể sản xuất độc tố Shiga, có thể gây hậu quả nghiêm trọng.

Biến thể STEC gây tổn thương nghiêm trọng niêm mạc ruột và thận

Các biến thể của E. coli sản xuất độc tố Shiga (Stx) được gọi là STEC. Chúng đã thu hút nhiều sự chú ý trong vài thập kỷ qua, vì chúng được biết đến là nguyên nhân gây bệnh nghiêm trọng.

STEC thuộc nhóm EPEC. Các chủng STEC có khả năng sinh độc tố có tên là độc tố Shiga loại 1 (Stx1), loại 2 (Stx2) hoặc cả hai, được mã hóa bởi các gen stx1 và stx2 tương ứng.

Các chất độc được đặt theo tên của Kiyoshi Shiga, người đầu tiên mô tả nguồn gốc vi khuẩn của bệnh kiết lỵ do Shigella dysenteriae gây ra. Trước đây, độc tố do E. coli tạo ra được đặt tên là độc tố giống như Shiga (SLT). Hiện nay, Shigella dysenteriae và STEC được coi là nguồn phổ biến nhất của độc tố Shiga.

Các triệu chứng của nhiễm trùng STEC bao gồm đau bụng và tiêu chảy. Cũng có những trường hợp nghiêm trọng (có thể đe dọa đến tính mạng) được đặc trưng bởi bệnh viêm đại tràng xuất huyết. Những loại E. coli này còn được gọi là Enterohemorrhagic E. coli (EHEC). Độc tố Shiga cũng liên quan đến hội chứng tan máu tăng ure máu (HUS).

Trong đó, STEC O157:H7 và STEC O104:H4 là hai chủng STEC khét tiếng nhất. Có thể nói các nhóm STEC này giống như những siêu chiến binh trong đội quân E. coli.

Vi khuẩn sinh độc tố Shiga là chủng E. coli mà người ta không muốn gặp phải. (The Epoch Times)
Vi khuẩn sinh độc tố Shiga là chủng E. coli mà người ta không muốn gặp phải. (The Epoch Times)

Độc tố Shiga thực hiện hầu hết công việc của nó trong các mạch máu nhỏ, vì nó không hiệu quả trong các mạch lớn như tĩnh mạch và động mạch chính. Đây là cách chất độc có thể chuyên chống lại đường tiêu hóa, thận và phổi.

Ví dụ, chất độc Shiga rất mạnh trong việc phá hủy các cụm đầu dây thần kinh hoặc mạch máu nhỏ ở thận, có thể dẫn đến suy thận và thậm chí là HUS. Nó cũng có thể gây tổn thương nghiêm trọng cho phổi, vì vậy ngộ độc thực phẩm liên quan đến độc tố Shiga cũng thường liên quan đến tổn thương phổi và hệ thần kinh.

Đường ruột của chúng ta, chứa đầy nhiều mạch máu thu nhỏ, đặc biệt dễ bị nhiễm Stx. (The Epoch Times)
Đường ruột của chúng ta, chứa đầy nhiều mạch máu thu nhỏ, đặc biệt dễ bị nhiễm Stx. (The Epoch Times)

Tiến triển ban đầu của nhiễm trùng STEC khá giống với nhiễm trùng E. coli thông thường.

Đầu tiên, vi khuẩn nhân lên trong ruột và ủ bệnh trong khoảng hai đến năm ngày, khoảng thời gian mà các triệu chứng tương đối ít. Khoảng 15% trường hợp STEC có thể phát triển thành hội chứng tan máu tăng urê huyết (HUS), đó là sự phá hủy các tế bào hồng cầu và suy thận.

Biểu hiện lâm sàng điển hình của STEC-HUS là tiêu chảy toàn nước, phân có máu kèm theo đau bụng dữ dội, buồn nôn và nôn từ ba đến năm ngày sau đó. Sau đó, bệnh nhân có thể bị thiếu tiểu cầu trong máu và suy thận cấp (AKI) từ hai đến 14 ngày sau khi tiêu chảy xuất hiện.

Khoảng 20% bệnh nhân bị STEC-HUS gặp các triệu chứng bên ngoài gan có thể ảnh hưởng đến hệ thống tim mạch, tuyến tụy, ruột, da, thậm chí cả ngón tay và ngón chân.

Tiến triển lâm sàng của STEC có xu hướng tự khỏi, tuy nhiên vẫn có một số biến chứng kéo theo sau đó. (The Epoch Times)
Tiến triển lâm sàng của STEC có xu hướng tự khỏi, tuy nhiên vẫn có một số biến chứng kéo theo sau đó. (The Epoch Times)

HUS có thể nghiêm trọng, vì vậy điều quan trọng là phải đi khám bác sĩ ngay khi các triệu chứng trở nên tồi tệ hơn. Tuy nhiên, hãy nhớ rằng hầu hết bệnh nhân mắc bất kỳ dạng E. coli nào cũng sẽ tự khỏi vì bệnh tiến triển tự giới hạn. Đối với hầu hết bệnh nhân có các triệu chứng nhẹ, hệ thống miễn dịch thừa khả năng xử lý nó khi nghỉ ngơi nhiều. Bác sĩ có thể xác nhận liệu điều trị có cần thiết hay không.

Các đợt bùng phát STEC và E. coli nói chung được phát hiện thông qua lấy mẫu phân và xét nghiệm trong phòng thí nghiệm. Vì các bệnh do Stx gây ra có thể khá nghiêm trọng nên có một số chiến lược điều trị tiềm năng có thể ngăn ngừa bệnh trở nên trầm trọng hơn.

Điều trị STEC

Vì độc tố Shiga được giải phóng do nhiễm khuẩn, nên nhiều người nghĩ rằng có thể sử dụng kháng sinh để ngăn chặn sự nhân lên của STEC trong cơ thể bệnh nhân, từ đó giảm số lượng độc tố tạo ra.

Tuy nhiên, đã có nhiều tranh luận về việc điều trị nhiễm STEC bằng kháng sinh. Không có dữ liệu nào chứng minh một cách thuyết phục rằng dùng kháng sinh tốt hơn là không điều trị bằng kháng sinh, và nhiều nghiên cứu cho thấy kháng sinh làm tăng nguy cơ phát triển HUS.

Điều trị STEC-HUS là một thách thức, vì bệnh nhân thường đã bị tổn thương nội tạng vào thời điểm họ tìm kiếm điều trị y tế. Chẩn đoán sớm có ý nghĩa rất quan trọng để cải thiện tiên lượng, giảm tỷ lệ tử vong và di chứng. Nếu nghi ngờ có sự xuất hiện của STEC-HUS, xét nghiệm phân và huyết thanh thường được yêu cầu để xác định xem có nhiễm STEC hay không.

Hiện tại, điều trị STEC-HUS chủ yếu dựa vào chăm sóc hỗ trợ, bao gồm hồi sức bằng dịch truyền, điều chỉnh các bất thường về điện giải và kiểm soát tăng huyết áp.

Ngay cả sau khi điều trị hỗ trợ tích cực, khoảng 30% bệnh nhân vẫn có các di chứng lâu dài khác nhau sau khi khởi phát cấp tính, bao gồm các di chứng về thận (protein niệu, bệnh thận mãn tính, v.v.) và các biến chứng thần kinh (liệt tứ chi, suy giảm nhận thức…).

Độc tố Shiga là độc tố protein chứ không phải hóa chất nhỏ. Giống như nọc rắn có chất giải độc, có thể có những lựa chọn tiềm năng để chống độc cho độc tố Shiga. Các kháng thể nhắm mục tiêu cụ thể đến độc tố Shiga chắc chắn là lựa chọn hàng đầu. Trong những năm gần đây, nhiều liệu pháp thay thế nhắm vào Stxs đã được phát triển và đánh giá, mang lại hy vọng mới cho việc phòng ngừa và điều trị STEC-HUS.

Các chiến lược khác để điều trị STEC bao gồm loại bỏ độc tố trong máu và các chất trung gian gây viêm trong máu. Tuy nhiên, điều quan trọng cần lưu ý là hầu hết những điều này có thể tránh được nếu tuân thủ các hướng dẫn về an toàn thực phẩm trong cuộc sống hàng ngày.

E. coli có thể là một trong những chủng vi khuẩn phổ biến nhất trên thế giới, vì có nhiều loại vật chủ mà nó có thể sống sót, cũng như nhiều bề mặt khác mà nó có thể tồn tại. Chúng còn xuất hiện trên rau tươi và rau lá xanh hoặc thịt sống, trứng và hải sản.

Một cách đơn giản để ngăn ngừa E. coli là nấu chín hoàn toàn thực phẩm trước khi ăn. Điều này đặc biệt đúng đối với thịt sống và các sản phẩm từ động vật. Sữa và các sản phẩm từ sữa cũng nên được tiệt trùng trước khi ăn vì chúng có khả năng chứa vi khuẩn có hại.

Rửa trái cây và rau quả chắc chắn sẽ giúp giảm nguy cơ nhiễm E. coli, nhưng không đảm bảo rằng tất cả mầm bệnh sẽ bị loại bỏ. Rau và trái cây có cấu trúc phức tạp nên khó rửa sạch hết các kẽ hở nhỏ bằng nước. Nấu chín vẫn là biện pháp an toàn nhất của bạn.

Nếu một thành viên trong gia đình hoặc người tiếp xúc gần gũi với E. coli, hãy đảm bảo không tiếp xúc với họ, kể cả khu vực sinh sống và phân của họ. Hãy nhớ khử trùng các bề mặt bằng cồn, thuốc tẩy hoặc bất kỳ chất khử trùng kháng khuẩn nào khác.

Nguy cơ mắc các bệnh do thực phẩm có thể giảm đáng kể bằng cách làm theo một số bước đơn giản. (The Epoch Times)
Nguy cơ mắc các bệnh do thực phẩm có thể giảm đáng kể bằng cách làm theo một số bước đơn giản. (The Epoch Times)

Những hướng dẫn này nên được tuân thủ nghiêm ngặt, đặc biệt là xung quanh trẻ em và người già. Hai nhóm tuổi này dễ mắc bệnh nặng nhất và không có khả năng chống chọi với nhiễm trùng.

Quan điểm thể hiện trong bài viết này là quan điểm của tác giả và không nhất thiết phản ánh quan điểm của NTDVN.NET.

(*) Ảnh chủ đề: ZEISS Microscopy Flickr - CC BY-NC-ND 2.0

Theo Tiến Sĩ Sean Lin từ The Epoch Times
Chấn Hưng biên dịch

Tiến sĩ Xiaoxu Sean Lin là trợ lý giáo sư tại Khoa Khoa học Y sinh tại Đại học Feitian ở Middletown, New York. Tiến sĩ Lin cũng là nhà phân tích và bình luận thường xuyên cho Epoch Media Group, VOA và RFA. Ông từng là nhà vi trùng học của Quân đội Hoa Kỳ và cũng là thành viên của Ủy ban về Mối nguy hiểm Hiện tại: Trung Quốc.



BÀI CHỌN LỌC

Cảnh giác với siêu vi khuẩn E. Coli đặc biệt nguy hiểm