Bí ẩn 9 triệu người biến mất trong một đêm

Giúp NTDVN sửa lỗi

Vào đầu thế kỷ 20, một ngôi mộ cổ khổng lồ ở Nội Mông đã bị trộm, phiến đá Rosetta giải mã chữ viết Khiết Đan đã được phát hiện. Các nhà khảo xét khảo cổ đã bắt đầu quá trình khó khăn để giải mã chữ viết Khiết Đan, và mở ra hành trình giải mã bí ẩn về sự biến mất của 9 triệu người Khiết Đan chỉ sau một đêm sau khi nhà Liêu sụp đổ.

Trong lịch sử Trung Quốc, từng có một quốc gia mà hàng triệu người dường như chỉ qua một đêm mà không còn tăm tích, giống như biến mất khỏi hư không.

Dân tộc biến mất

Phía bắc Xích Phong, Nội Mông ngày nay có một nơi gọi là Bairin Right Banner. Những ngọn núi ở đây nhấp nhô với phong cảnh thảo nguyên. Ở dãy núi gần đó có một hẻm núi, người dân địa phương gọi nó là Warin Manga, trong tiếng Mông Cổ có nghĩa là đống đổ nát.

Vì hẻm núi cây cối mọc um tùm, khắp nơi là đá, gạch. Phía sau hẻm núi là những tảng đá kỳ lạ, thế núi kéo dài. Trên đồi núi có ba tòa kiến trúc cổ, xếp hàng từ đông sang tây. Tòa nhà tráng lệ, thoạt nhìn là biết đó không phải là nhà của những người bình thường.

Người dân địa phương từ lâu đã truyền miệng một truyền thuyết rằng, dưới tòa nhà cổ có ba ngôi mộ cổ hơn 1000 năm tuổi. Trong ngôi mộ cổ có bàn vàng, bộ đồ ăn bằng bạc, ngựa ngọc, và vô số vàng bạc châu báu. Nhưng không ai biết được truyền thuyết này đúng hay sai? Sau một thời gian dài, nó đã bị lãng quên.

Người dân địa phương từ lâu đã truyền miệng một truyền thuyết rằng, dưới tòa nhà cổ có ba ngôi mộ cổ hơn 1000 năm tuổi (Ảnh chụp màn hình)
Người dân địa phương từ lâu đã truyền miệng một truyền thuyết rằng, dưới tòa nhà cổ có ba ngôi mộ cổ hơn 1000 năm tuổi (Ảnh chụp màn hình)

Vào đầu thế kỷ 20, một cường hào địa phương họ Liêm nảy ra ý tưởng về ngôi mộ cổ. Ông là quản lý của một trường học địa phương. Do hoạt động kinh doanh của trường kém, nên nợ lương giáo viên rất nhiều. Nhưng ông Liêm tham lam, không muốn lấy tiền từ túi mình ra chi trả, mà lại dòm ngó đến ngôi mộ cổ, muốn kiếm tiền nhanh, giải quyết nhu cầu cấp thiết. Vì vậy, ông ta tìm tới băng nhóm trộm mộ chuyên nghiệp để cùng nghiên cứu kế hoạch trộm mộ.

Cuối cùng, vào một đêm tối và giông tố năm 1922, cường hào Liêm dẫn nhóm trộm mộ đi khai quật ngôi mộ ở giữa trong số ba ngôi mộ cổ. Ở dưới cuối ngôi mộ, họ thấy một cung điện hùng vĩ dưới lòng đất sừng sững, rộng lớn. Tại lối vào của cung điện, còn có biển hiệu nền xanh ba chữ Hán màu vàng “Ninh Tĩnh Cung”. Nhưng nhóm người này lại không vui mừng vì ngôi mộ chính và hai ngôi mộ bên đều chứa đầy nước. Mộ chính dài 9m, rộng 5,6m, trông có vẻ như một bể chứa nước lớn. Đáy bể đầy bùn, hoàn toàn không thể phân biệt đâu là bảo bối, đâu là đá.

Cường hào Liêm nghiến răng, đã đến được đây, ông ta không thể từ bỏ như thế này được. Vì vậy, ông ta đã đưa ra quyết định hút nước, truy tìm kho báu. Băng nhóm trộm mộ bắt đầu việc bơm nước. Do không thể làm việc này vào ban ngày, chỉ có thể ra tay lúc đêm khuya, vắng người. Mất hai tháng, mới hút sạch được hết nước đi.

Nhóm trộm mộ và cường hào sững sờ, hóa ra ngôi mộ cổ đã bị 'viếng thăm' trước đó, đã bị đánh cắp rồi, không còn kho báu nữa. Xương cốt chủ nhân ngôi mộ vương vãi khắp nơi. Nhóm trộm mộ chỉ nhặt được một số đồng xu cổ.

Mặc dù không lấy được kho báu, nhưng vì việc trộm mộ quá ồn ào, nên tin đồn về vụ đào được kho báu trong ngôi mộ cổ trên núi lan rộng khắp Bairin Right Banner và các khu vực xung quanh. Một người ở huyện Lâm Tây bên cạnh đã động tâm khi biết tin. Ông ấy tên là Louis Kervyn là một linh mục Công giáo người Bỉ. Khi đó, ông đang truyền giáo ở huyện Lâm Tây. Ông nghe nói rằng có một ngôi mộ cổ đã được khai quật ở Warin Manga. Vì vậy, tận dụng đêm tối và gió to, ông dẫn theo một nhóm trộm mộ cũng lẻn vào mộ cổ.

Louis Kervyn là một linh mục Công giáo người Bỉ. Khi đó, ông đang truyền giáo ở huyện Lâm Tây, nghe tin có một ngôi mộ cổ đã được khai quật ở Warin Manga. Vì vậy, tận dụng đêm tối và gió to, ông dẫn theo một nhóm trộm mộ cũng lẻn vào mộ cổ (Ảnh chụp màn hình)
Louis Kervyn là một linh mục Công giáo người Bỉ. Khi đó, ông đang truyền giáo ở huyện Lâm Tây, nghe tin có một ngôi mộ cổ đã được khai quật ở Warin Manga. Vì vậy, tận dụng đêm tối và gió to, ông dẫn theo một nhóm trộm mộ cũng lẻn vào mộ cổ (Ảnh chụp màn hình)

Nhưng linh mục Kervyn không phải đến để đào kho báu vàng bạc. Ông là một người am hiểu về Trung Quốc, nên ông phỏng đoán rằng một ngôi mộ lớn như vậy sẽ có bia văn. Ông đến đây để đào cổ vật. Đúng như dự liệu, nhóm đã đào được bốn khối sa thạch vuông vức từ trong bùn. Trên khối đá khắc đầy chữ.

Vị linh mục sung sướng tới chảy nước mắt, nhưng đồng thời ông cũng rất lo vì mỗi tảng đá nặng hơn 700 kg, không thể mang đi. Nhóm đào trộm mộ của ông ta biết xem phong thuỷ, đào kho báu, nhưng không biết làm thế nào với các văn vật, cũng không biết làm thế nào để lấy bia văn đem đi. Vì vậy, nhóm phải làm y theo lời của linh mục, mất tất cả 5 ngày để mô phỏng lại tất cả các bia văn. Sau đó chôn các bia đá ngay tại chỗ.

Phán đoán của Kervyn quả không sai, 4 tấm bia này thực sự là một di tích văn hóa rất có giá trị. Đó là bia văn của Liêu Hưng Tông Gia Luật Tông Chân và hoàng hậu của ông, hai bia văn truy điệu của Hoàng hậu Nhân Ý Tiêu Đạt Lý. Đây cũng là văn bia của các đế vương và hoàng hậu. Chúng được viết song ngữ bằng chữ Hán và chữ Khiết Đan.

Kervyn rất đắc ý, đã ngay lập tức công bố phát hiện của mình. Nó liền được một nhà Hán học đưa lên Tạp chí Hán học có uy tín nhất trên thế giới vào đầu thế kỷ 20 - Archives. Phát hiện này đã gây chấn động mạnh mẽ trên thế giới.

Bởi vì đây là lần đầu tiên ký tự Khiết Đan xuất hiện trở lại kể từ khi nhà Liêu tiêu vong vào thế kỷ thứ 12. So với chữ giáp cốt cách đây hơn 3000 năm, chữ Khiết Đan thậm chí còn không ai có thể hiểu được. Nhiều người có thể cho rằng điều này là phóng đại, nhưng đó là sự thật.

Đây là lần đầu tiên ký tự Khiết Đan xuất hiện trở lại kể từ khi nhà Liêu tiêu vong vào thế kỷ thứ 12. So với chữ giáp cốt cách đây hơn 3000 năm, chữ Khiết Đan thậm chí còn không ai có thể hiểu được (Ảnh chụp màn hình)
Đây là lần đầu tiên ký tự Khiết Đan xuất hiện trở lại kể từ khi nhà Liêu tiêu vong vào thế kỷ thứ 12. So với chữ giáp cốt cách đây hơn 3000 năm, chữ Khiết Đan thậm chí còn không ai có thể hiểu được (Ảnh chụp màn hình)

Mặc dù chữ giáp cốt đã có từ lâu, nhưng có liên quan đến những chữ viết cổ xưa khác được lưu truyền từ các thế hệ sau. Ví dụ, những chữ kim văn khắc trên đồ đồng thời nhà Chu, các chữ triện sau này, chữ đại triện viết cổ, v.v. Từ logic tạo chữ của những ký tự này, có thể suy ra ý nghĩa của chữ giáp cốt.

Điều đó cũng có nghĩa là, dù cho loại chữ nào đó rất cổ xưa, miễn là trong một hệ thống văn hóa sống có hậu duệ của nó, thì từ gen di truyền sẽ dễ dàng hiểu được nó. Nhưng cái khó của chữ Khiết Đan là các quy tắc tuân theo khi tạo ký tự rất xa lạ với chúng ta.

Năm 1215, sau khi Hoàng đế Thiên Tộ của triều Đại Liêu bị người Nữ Chân bắt làm tù binh, hàng triệu người Khiết Đan nhanh chóng biến mất, không biết họ đi đâu. Những tài liệu từ triều đại Liêu bị người thống trị Nữ Chân sau này phá huỷ một cách hệ thống, cũng chính là tiến hành diệt chủng văn hóa. Và hậu duệ của người Khiết Đan mai danh ẩn tích, không còn dùng văn tự của tổ tiên. Ngôn ngữ và chữ viết chỉ có thể sống nếu nó được sử dụng, chỉ cần một thế hệ không viết, không nói nó sẽ tiêu vong. Đồng thời cũng không có quốc gia nào khác học chữ Khiết Đan và giúp bảo tồn nó.

Vì vậy, đế quốc Đại Liêu, đã thống trị Bắc Á và Đông Bắc Á hơn 200 năm, cùng với sụp đổ nhanh như chớp của nó, khiến văn hóa Khiết Đan và chữ viết Khiết Đan cũng biến mất nhanh chóng. Hàng triệu người Khiết Đan giống như qua một đêm mà biến mất khỏi ghi chép lịch sử. Họ đã đi đâu? Điều này đã trở thành một trong những ẩn đố trong nghiên cứu lịch sử.

đế quốc Đại Liêu, đã thống trị Bắc Á và Đông Bắc Á hơn 200 năm, cùng với sụp đổ nhanh như chớp của nó, khiến văn hóa Khiết Đan và chữ viết Khiết Đan cũng biến mất nhanh chóng. Hàng triệu người Khiết Đan giống như qua một đêm mà biến mất khỏi ghi chép lịch sử (Ảnh chụp màn hình)
Đế quốc Đại Liêu, đã thống trị Bắc Á và Đông Bắc Á hơn 200 năm, cùng với sụp đổ nhanh như chớp của nó, khiến văn hóa Khiết Đan và chữ viết Khiết Đan cũng biến mất nhanh chóng. Hàng triệu người Khiết Đan giống như qua một đêm mà biến mất khỏi ghi chép lịch sử (Ảnh chụp màn hình)

Tất cả những gì chúng ta biết về triều đại Liêu, ngoại trừ kể chuyện “Dương Gia Tướng”, và những câu chuyện kể rời rạc của lịch sử nhà Tống. Còn lại hầu như đều đến từ “Liêu Sử” do Nhân Thoát Thoát của triều Nguyên chủ trì biên soạn. Ông sưu tầm hơn 210 năm lịch sử từ khi thành lập triều đại Liêu cho đến khi nó sụp đổ. Cũng có những ghi chép rất đơn giản về lịch sử của người Khiết Đan trước khi thành lập triều đại Liêu, triều đại Tây Liêu do tướng Gia Luật Đại Thạch thành lập khi mang theo một số ít người Khiết Đan chạy tới Trung Á sau khi triều đại Liêu sụp đổ.

Nhưng do phần liên quan tới Tây Liêu quá giản lược, không đủ tiêu chuẩn nên nó không được đưa vào sách sử Trung Quốc. Tuy nhiên, một “Liêu sử” quá đơn giản như vậy là hoàn toàn không được chấp nhận trong 24 bộ sử của Trung Quốc. Thừa tướng Thoát Thoát đã chủ trì chỉnh sửa sử ký các triều Tống, Liêu, Kim.

Thời kỳ lịch sử được biên soạn bắt kịp với thời kỳ cuối nhà Nguyên. Tình hình hỗn loạn và tài chính eo hẹp, còn phải làm kịp tiến độ, và “Liêu sử” hoàn thành trong thời gian ngắn nhất, 11 tháng đã thành sách. Tất nhiên do sự vội vàng, hạn chế về thời gian và thiếu nhân lực, cộng với thông tin về nhà Liêu vốn đã ít, nên việc thu thập dữ liệu, nghiên cứu và hiệu đính khá thô tháo. Vì vậy, có khá nhiều sơ hở. Một sự kiện nói nhầm thành hai sự kiện, một người trong các phần khác nhau của một cuốn sách được viết thành hai, ba người. Những nhầm lẫn như vậy có quá nhiều trong “Liêu sử”.

Hơn nữa, điều làm cho các thế hệ sau này bối rối hơn là một phiên bản tối giản của "Liêu sử", sau khi được viết thành sách lần đầu tiên, chỉ có 100 bản được xuất bản trong 5 năm. Sau này đáng tiếc 100 bản “Liêu sử" đó đã bị thất lạc. “Liêu sử” mà hiện chúng ta đang xem được ghép lại vào đầu thời nhà Minh, chỉ có thể được coi là phiên bản thô tháo thứ hai.

Vậy người Khiết Đan nói gì về lịch sử của họ? Vì không còn tài liệu, cũng không biết. Những gì người khác nói chỉ là thông tin rải rác và không đáng tin cậy. Tình trạng này kéo dài 600-700 năm mà không có manh mối. Cho đến đầu thế kỷ 20, tấm bia đá mà Kervyn phát hiện xuất hiện, mới có tài liệu riêng về người Khiết Đan.

Cho đến đầu thế kỷ 20, tấm bia đá mà Kervyn phát hiện xuất hiện, mới có tài liệu riêng về người Khiết Đan (Ảnh chụp màn hình)
Cho đến đầu thế kỷ 20, tấm bia đá mà Kervyn phát hiện xuất hiện, mới có tài liệu riêng về người Khiết Đan (Ảnh chụp màn hình)

May mắn là có hướng đi để triển khai. Hiện một quần thể lăng mộ Khiết Đan lớn đã được phát hiện ở Warin Mangha, Nội Mông, tiếp tục đào lại tìm thấy nhiều tài liệu hơn. Đến năm 1930, một người đàn ông tên Thang Tá Vinh, là con trai của Thang Ngọc Lân, chủ tịch tỉnh Nhiệt Hà, đã dẫn quân đội đến Warin Mangha, khai quật hai lăng mộ đông và tây.

Lăng phía đông là lăng tẩm của Liêu Thánh Tông Gia Luật Long Tự và hai hoàng hậu của ông. Gia Luật Long Tự là con trai của Tiêu Thái hậu nổi tiếng trong chuyện kể “Dương Gia Tướng”. Và lăng phía Tây là lăng mộ của Liêu Đạo Tông Gia Luật Hồng Cơ và hoàng hậu của ông. Trong hai ngôi mộ này, quả thực đã tìm thấy được rất nhiều kho báu, ngoài ra còn có bia truy điệu và tài liệu chữ Khiết Đan.

Người Khiết Đan tráng kiện, chất phác, những tài liệu này được khắc trên những phiến đá nặng vài trăm ký. Mặc dù Thang Tá Vinh tham tiền, nhưng cũng hiểu được giá trị của di tích văn vật. Thang đã dành rất nhiều nỗ lực mang những tài liệu nặng này vận chuyển trở lại Thang Công Quán ở Thẩm Dương. Sau này, nơi đây trở thành Bảo tàng của tỉnh Liêu Ninh. Những tấm bia này trở thành báu vật trấn giữ nơi này.

Bảo tàng của tỉnh Liêu Ninh (Ảnh chụp màn hình)
Bảo tàng của tỉnh Liêu Ninh (Ảnh chụp màn hình)

Việc một lúc khai quật được rất nhiều bia đá khắc văn tự Khiết Đan, làm cho các chuyên gia rất phấn khích, nhưng khi nhìn thấy chúng, họ chết lặng vì một loạt các chữ không ai biết là chữ gì. Bởi vì vào năm 1191 sau khi Kim Chương Tông đã hạ lệnh cấm lưu hành chữ Khiết Đan, ngôn ngữ Khiết Đan đã rời khỏi vũ đài lịch sử.

Trong tiểu thuyết “Ỷ thiên đồ long ký” của Kim Dung, một trong những nhân vật là Gia Luật Sở Tài phải đến Tây Liêu ở Trung Á vào thời đó để học chữ Khiết Đan. Ông là người được ghi chép trong sử sách là người cuối cùng biết chữ Khiết Đan. Còn ngày nay không tìm ra ai biết chữ Khiết Đan nữa.

Vì vậy, các chuyên gia thế kỷ 20 bắt đầu quá trình giải mã văn tự Khiết Đan một cách chậm chạp. Thứ thiếu nhất là từ điển, tài liệu song ngữ để đối chiếu cũng cực kỳ hiếm. Vì vậy công việc giải mã văn tự Khiết Đan vẫn đang diễn ra rất chậm cho đến ngày nay.

Sau khi nhà Liêu sụp đổ, hàng triệu người Khiết Đan đã đi đâu? Từ những gì người Khiết Đan nói để tìm ra manh mối, e rằng có rất ít hy vọng. Dân số tộc người Khiết Đan vào thời đầu triều đại Liêu được lập nên là 2 triệu, giai đoạn sau tăng lên 9 triệu người.

Với sự sụp đổ của nhà Liêu, gần 9 triệu người dường như đã biến mất trong sử sách chỉ sau một đêm. Vậy họ đã đi đâu? Qua nghiên cứu về lịch sử của các dân tộc khác trong những thập kỷ gần đây, các chuyên gia rút ra một phỏng đoán sơ bộ.

Sau khi Tây Liêu được Gia Luật Đại Thạch thành lập, bị Thành Cát Tư Hãn tiêu diệt, người Khiết Đan ở đây một lần nữa phải di chuyển về phía tây, đến phía nam của Iran ngày nay. Họ và lực lượng chiếm đóng Mông Cổ, người Hồi Hột và các dân tộc Trung Á khác dung hợp với nhau. Sau đó, huyết thống của nhánh người Khiết Đan Tây Liêu này đã biến mất.

Sau khi Tây Liêu được Gia Luật Đại Thạch thành lập, bị Thành Cát Tư Hãn tiêu diệt, người Khiết Đan ở đây một lần nữa phải di chuyển về phía tây, đến phía nam của Iran ngày nay (Ảnh chụp màn hình)
Sau khi Tây Liêu được Gia Luật Đại Thạch thành lập, bị Thành Cát Tư Hãn tiêu diệt, người Khiết Đan ở đây một lần nữa phải di chuyển về phía tây, đến phía nam của Iran ngày nay (Ảnh chụp màn hình)

Một bộ phận khác của dân tộc Khiết Đan ở lại đồng bằng Tùng Liêu và Bắc Trung Quốc, vốn là khu vực cốt lõi do Vương quốc Liêu cai trị, rồi bị người Nữ Chân thống trị, sau đó lại bị người Mông Cổ thống trị. Nhưng cuối cùng họ đều bỏ họ của tổ tiên và Hán hóa dần dần, trở thành Đông Bắc và Hoa Bắc của Trung Quốc ngày nay. Một phần trong họ Lưu, Vương, Lý, Trịnh đã dung nhập hoàn toàn vào Hán tộc, làm dòng máu riêng biệt của dân tộc cũng bị mất.

Ngoài ra còn có một số lượng nhỏ người Khiết Đan theo quân Mông Cổ hành quân về phía Tây, họ ở lại Châu Âu và Tây Á, cũng dung hợp hoàn toàn với người dân địa phương. Trên thực tế, hầu hết các chuyên gia đều có kết luận rằng dân tộc Khiết Đan đã biến mất từ ​​​​lâu, cũng không tìm thấy hậu duệ trực tiếp của họ nữa.

Cho đến năm 1992, mọi thứ đột nhiên chuyển biến. Tại thành phố Bảo Sơn, tỉnh Vân Nam, có huyện Thi Điện. Huyện này nằm ở biên giới Vân Nam, phong cảnh tuyệt đẹp. Thi thoảng khách du lịch đến đây chơi.

Một hôm, khi một nhóm khách du lịch đang chơi trong thôn làng, chợt phát hiện ra một bia mộ cũ trong làng. Trên đó viết một danh sách dài những cái tên kỳ lạ: “Hoàng thanh đãi tặng hiếu hữu hoà bình nhất thế tổ huý A Tô Lỗ thiên thu chi mộ”. Điều quan trọng nhất là ở dưới cùng bên phải của bia mộ có khắc hai chữ lạ. Hai ký tự này không phải là ký tự Trung Quốc, cũng không phải văn tự của bất kỳ nhóm dân tộc nào ở Vân Nam, không ai đọc được.

Ở dưới cùng bên phải của bia mộ có khắc hai chữ lạ. Hai ký tự này không phải là ký tự Trung Quốc, cũng không phải văn tự của bất kỳ nhóm dân tộc nào ở Vân Nam, không ai đọc được (Ảnh chụp màn hình)
Ở dưới cùng bên phải của bia mộ có khắc hai chữ lạ. Hai ký tự này không phải là ký tự Trung Quốc, cũng không phải văn tự của bất kỳ nhóm dân tộc nào ở Vân Nam, không ai đọc được (Ảnh chụp màn hình)

Một trong những du khách tại đó cũng không phải là nhân vật tầm thường. Tên ông là Dương Dục Tương, là nhà nghiên cứu tại Viện Nghiên cứu Dân tộc Vân Nam. Theo trực giác của ông Dương, hai từ kỳ lạ này xem ra là chữ Khiết Đan. Ông đã chụp ảnh hai chữ này và mang nó về cho các chuyên gia Khiết Đan kiểm tra. May mắn thay, hai từ này là chữ Khiết Đan đã được giải mã. Hai ký tự Khiết Đan này có nghĩa là “quan trưởng”.

Các chuyên gia vô cùng hứng khởi bởi lẽ nào hậu duệ trực tiếp của người Khiết Đan vẫn còn tồn tại đến ngày nay và đã được tìm thấy? Các chuyên gia đổ xô đến Thi Điện. Một người dân địa phương tên là Tưởng Văn Trị nói với các chuyên gia rằng, gia đình ông là hậu duệ của người Khiết Đan. Ông nói rằng chủ của ngôi mộ vừa rồi, A Tô Lỗ là tổ tiên dòng họ Tưởng.

Đồng thời, ông Tưởng còn lấy ra một gia phả, mở ra phần ghi về tổ tiên sớm nhất trong cây gia đình, và quả đúng là Gia Luật A Bảo Cơ - chính là Liêu Thái Tổ. Hóa ra gia đình này không chỉ là người Khiết Đan, mà còn là hậu duệ của hoàng tộc Khiết Đan. Sau đó, ông Tưởng giải thích rằng, gia đình ông đã đổi họ thành “A” trong thời nhà Kim. Rồi họ lại đổi thành họ “Mãng” để tránh chiến tranh. Vào thời nhà Minh, họ được ban tặng cho họ “Tưởng”, và nó được sử dụng cho đến nay.

Gia Luật A Bảo Cơ - chính là Liêu Thái Tổ của hoàng tộc Khiết Đan (Ảnh chụp màn hình)
Gia Luật A Bảo Cơ - chính là Liêu Thái Tổ của hoàng tộc Khiết Đan (Ảnh chụp màn hình)

Ông Tưởng cũng cho biết, tại khu vực Thị Điện, người Bồ Mãn có họ Dương và Lý, còn được gọi là “bổn nhân” cũng đều là hậu duệ của người Khiết Đan với họ “A”. Tuy có gia phả nhưng những lời nói này vẫn khiến các chuyên gia bán tín bán nghi. Thế nhưng họ cũng thực sự tìm thấy ghi chép như vậy trong “Nguyên sử”. Nguyên Thế Tổ Hốt Tất Liệt từng ra lệnh cho tả thừa tướng tới thăm hỏi nguyên soái sứ độ ở Vân Nam lâm bệnh. Vị nguyên soái này là tướng Khiết Đan, tên là Gia Luật Mang Cổ Đai. Khi đó, ông đang lãnh đạo đội quân người Khiết Đan đánh chiếm Vân Nam. Kết quả là ông bị bệnh và qua đời ở Vân Nam. Thuộc hạ và người nhà của ông đều định cư ở Vân Nam.

Người Khiết Đan có tổ tiên từ vùng Đông Bắc, đã định cư ở Vân Nam qua nhiều thế hệ. Đồng thời, qua việc sắp xếp, chỉnh lý văn hóa dân tộc thiểu số, đã phát hiện ra rằng người Daur ở Nội Mông ngày nay rất có khả năng là hậu duệ trực tiếp của người Khiết Đan.

Do bấy giờ công nghệ xét nghiệm ADN bắt đầu áp dụng vào khảo cổ học, nên Viện Khoa học Trung Quốc và Học viện Y học Trung Quốc mở một dự án rất tiên tiến vào thời điểm đó. Nó được gọi là “Khảo cổ học phân tử xác chết cổ đại Khiết Đan”.

Phương thức dự án hoạt động là các chuyên gia đã lấy mẫu DNA được tìm thấy trên 10 thi thể Khiết Đan cổ đại ở khu vực Xích Phong. Một trong những thi thể đó được các chuyên gia phỏng đoán là của công chúa Khiết Đan, bởi vì trong ngôi mộ của cô đã khai quật được một chiếc vương miện. Cô không phải là hoàng hậu hay phi tần, và đồ tùy táng của cô sang trọng hơn và tinh tế hơn tể tướng Gia Luật Vũ cùng thời bấy giờ. Vì vậy, các chuyên gia đã xác định cô là con gái của Liêu Thái Tổ Gia Luật A Bảo Cơ. Cô có huyết thống hoàng gia Khiết Đan thuần khiết nhất.

Một trong những thi thể đó được các chuyên gia phỏng đoán là của công chúa Khiết Đan, bởi vì trong ngôi mộ của cô đã khai quật được một chiếc vương miện (Ảnh chụp màn hình)
Một trong những thi thể đó được các chuyên gia phỏng đoán là của công chúa Khiết Đan, bởi vì trong ngôi mộ của cô đã khai quật được một chiếc vương miện (Ảnh chụp màn hình)

Sau khi trích xuất DNA của thi thể cổ đại, các chuyên gia lấy thêm 105 mẫu DNA của người Hán, 20 DNA của người Mông Cổ, và mẫu DNA của con cháu người Khiết Đan mà các chuyên gia vừa tìm thấy ở Vân Nam. So sánh tất cả những DNA này với DNA của người Daur ở Mông Cổ, kết quả cho thấy bổn nhân và người Daur chính là hậu duệ của người Khiết Đan. Bí ẩn ngàn năm chưa có lời giải cuối cùng cũng được giải đáp.

Sau khi nhà Liêu sụp đổ, hàng triệu người Khiết Đan, hậu duệ trực tiếp của hàng triệu người Khiết Đan vẫn còn ở Trung Quốc ngày nay cuối cùng đã được tìm thấy. Nhưng ở đây có vấn đề rằng khảo cổ học phân tử có đáng tin cậy không?

Khó khăn trong khảo cổ di truyền

Khảo cổ học di truyền không dễ dàng như hầu hết mọi người nghĩ rằng, chỉ cần đơn giản trích xuất DNA của thi thể cổ đại, và so sánh với của con người còn sống ngày nay thì cho ra kết luận. Nhưng nó không đơn giản như thế.

Vì sau khi sinh vật chết đi, DNA sẽ bị thoái hóa một cách tự nhiên. Tất nhiên ở nhiệt độ thấp, nhanh khô, và môi trường nhiều muối, thời gian bảo tồn được lâu hơn. Do đó, thường DNA thu được đều không còn nguyên vẹn.

Nói như trong phim “Công viên kỷ Jura”, qua thời gian lâu dài 60 triệu năm, vẫn có thể thu được bộ gen hoàn chỉnh của khủng long, không phải một hoặc hai đoạn gen mà là cả bộ gen hoàn chỉnh. Sau đó sử dụng công nghệ di truyền hiện đại để tái tạo khủng long. Đừng nói 60 triệu năm trước, mà với sinh vật 6.000 năm trước nếu có thể lấy một vài đoạn gen đã là rất khó. Vậy nên nên nói đây là ảo tưởng, đúng hơn là khoa học viễn tưởng. Một tình tiết vô lý như vậy chỉ có Công viên kỷ Jura mới có thể thêu dệt nên được.

Hơn nữa, khảo cổ di truyền có hai vấn đề khó khăn: thứ nhất là ô nhiễm. DNA của chính các nhà khảo cổ học là nguồn gây ô nhiễm số 1. Mồ hôi người, lớp da mỏng rơi ra, hay thậm chí ngay cả không khí thở ra cũng có thể mang theo DNA riêng của họ.

DNA được phân lập từ xác chết cổ đại vốn ít. Một khi trộn với vật chất DNA của chính nhà khảo cổ học, gửi đến phòng thí nghiệm để đo lường, nhưng nó đã không phải là vật chất di truyền của xác chết cổ đại nữa, mà là của các nhà khảo cổ học.

Vấn đề thứ hai chính là vi khuẩn trong phòng thí nghiệm, DNA người và DNA khuếch tán. Do đó, nếu muốn khảo cổ học phân tử mang lại kết quả thực sự, thì có yêu cầu rất nghiêm khắc đối với việc lấy mẫu DNA trong suốt quá trình khảo cổ, điều kiện phòng thí nghiệm, phương pháp thí nghiệm, xử lý chất ô nhiễm và nguồn ô nhiễm.

Ngay cả khi tất cả điều đó làm được, cũng không thể loại trừ 100% việc ô nhiễm. Nhưng kết quả sẽ đáng tin cậy hơn. Do đó, kết quả khảo cổ học về xác chết cổ đại Khiết Đan có chuẩn xác hay không, phụ thuộc vào việc có thể trích xuất DNA hoàn chỉnh và không bị ô nhiễm từ công chúa Khiết Đan đã chết cách đây gần một nghìn năm hay không, và sau khi các chuyên gia xem xét các dữ liệu chi tiết mới có thể rút ra kết luận.

Tất nhiên đó là công việc phức tạp đằng sau hậu trường. Nhưng may mắn thay là hiện giờ chúng ta đã có phác thảo sơ bộ về hướng đi của hàng triệu người Khiết Đan sau khi Đại Liêu diệt vong.

Theo Wenzhaostudio

Minh An biên dịch



BÀI CHỌN LỌC

Bí ẩn 9 triệu người biến mất trong một đêm