Cao tăng Mật tông đời Đường khiến 7 ngôi sao Bắc đẩu biến mất, ứng nghiệm tiên tri 800 năm trước

Giúp NTDVN sửa lỗi

Di chỉ thiên văn cổ đại

Hà Nam, Trung Quốc có một thị trấn nhỏ gọi là Cáo Thành, thời Đường gọi là Dương Thành, nơi đây có một di chỉ kiến trúc cổ đại, trông rất kỳ lạ, tên học thuật của nó là “Khuê biểu”, nhưng người địa phương quen gọi nó là Chu Công Trắc Cảnh Đài.

Khuê biểu cấu tạo như sau, cột dựng đứng gọi là Biểu, còn mặt phẳng ngang chỉ về hướng bắc gọi là Khuê. Tác dụng của khuê biểu là thông qua đo độ dài của bóng mặt trời để chia ra mùa, tiết khí, và suy tính lịch pháp.

Suy tính lịch pháp như thế nào? Ví dụ như, người quan sát vào Chính ngọ ngày Xuân phân của năm thứ nhất đánh dấu vị trí bóng mặt trời trên thước đo, sau đó vào Chính ngọ một ngày nào đó năm thứ 2, nếu quan sát được bóng mặt trời rơi vào vị trí đánh dấu Xuân phân năm ngoái, thế thì anh ta biết rằng Xuân phân đã đến rồi. Phương pháp đo lường này gọi là “Khuê biểu trắc ảnh”

Khuê biểu này là là 1 trong những khuê biểu chính xác nhất thời Thịnh Đường, hơn nữa nó còn là 1 trong những di vật đo đạc thiên văn và mặt đất quy mô lớn của Trung Quốc, thậm chí là của thế giới. Về chi tiết đo đạc mặt đất, sẽ được đề cập ở phần dưới.

Khuê biểu này là do Nhất Hạnh - nhà thiên văn học triều Đường chế tác. Cái tên này nghe có vẻ lạ, Nhất Hạnh không giống cái tên người bình thường, bởi vì ông không chỉ là nhà thiên văn học, mà còn là ông tổ đời thứ 8 của Chân ngôn tông của Đông mật, Nhật Bản, tức vị cao tăng chân chính được Mật tông quán đỉnh. Nhất Hạnh không phải tên gốc của ông mà là Pháp hiệu.

Khuê biểu ở Quan Tượng Đài cổ ở Bắc Kinh. (Miền công cộng)

Xuất thân thế phiệt - Trí nhớ siêu phàm

Năm 683, tại Xương Lạc, Ngụy Châu, tức huyện Nam Lạc, tỉnh Hà Nam, Trung Quốc hiện nay, một bé trai chào đời. Cha mẹ cậu rất vui mừng, đặt cho cậu cái tên Trương Toại.

Cha Trương Toại là viên quan nhỏ, là huyện trưởng huyện Võ Công, nhưng ông cụ tằng tổ của Trương Toại lại là một người nổi tiếng, đó là Trương Công Cẩn - 1 trong 24 công thần được vẽ chân dung ở Lăng Yên Các. Hai cống hiến lớn của Trương Công Cẩn đối với đế quốc Đại Đường là, thứ nhất, trước biến cố Huyền Vũ Môn vào tháng 6 năm Vũ Đức thứ 9 đời Đường Cao Tổ, tức tháng 7 năm 626 dương lịch, khi Tần Vương Lý Thế Dân vẫn còn do dự chưa quyết định việc khởi binh, ông đã thuyết phục Lý Thế Dân khởi binh. Sau đó vào lúc nguy cấp ở Huyền Vũ Môn, ông lại dựa vào thần lực Trời ban, một mình ông đã đóng cổng Huyền Vũ Môn, ngăn quân địch mạnh ở bên ngoài cổng thành, bảo đảm sự an toàn cho Lý Thế Dân. Do đó, sau khi lên ngôi hoàng đế, Lý Thế Dân đã ghi đại công cho ông.

Cống hiến thứ hai của Trương Công Cẩn là 3 năm sau biến cố Huyền Vũ Môn, là người trí dũng song toàn, ông đã hiến kế cho Đường Thái Tông tấn công Đông Đột Quyết. Ông nắm bắt thời cơ xuất binh vừa vặn đúng lúc, phán đoán hình thế rất chính xác. Sau khi Thái Tông phê chuẩn xuất binh, quân Đường chỉ một trận đã tiêu diệt đế quốc Đông Đột Quyết.

Vì 2 đại công này, Thái Tông phong ông là Trâu Quốc Công, được vẽ chân dung ở Lăng Yên Các.

undefined
Trương Công Cẩn - ông tổ của Trương Toại. (Miền công cộng)

Mấy người con trai của Trương Công Cẩn đều bị giáng chức quan ở thời Võ Tắc Thiên, từ trung ương giáng xuống địa phương. Đến đời thứ 3, tức đời của phụ thân của Trương Toại thì gia cảnh đã tụt xuống bậc trung rồi. Trời có gió mây bất trắc, gia tộc này bị ách vận liên tiếp. Trương Toại khi còn đang ở tuổi thơ ấu thì cha mẹ đều qua đời. Một người hàng xóm thiện tâm là cô Vương rất thích Trương Toại, và luôn tiếp tế cho nhà họ Trương, do đó Trương Toại sống cuộc sống không phải là đại phú đại quý, nhưng tuổi thơ của ông cũng không phải lo cái ăn cái mặc.

Trương Toại đọc nhiều thi thư, cộng thêm thiên tư thông minh dĩnh ngộ, tuổi còn nhỏ mà danh tiếng đã lan xa, được Võ Tam Tư - cháu trai Võ Tắc Thiên, để ý, muốn thu nạp Trương Toại dưới trướng, làm mưu sĩ cho ông ta. Nhưng tổ tiên Trương Toại luôn dốc lòng trung thành với hoàng thất Lý Đường, nên Trương Toại không muốn phục vụ gia tộc họ Võ, nhưng lại không dám cự tuyệt. Thế là Trương Toại đành phải rời nhà ra đi.

Trương Toại đến núi Tung Sơn, tu hành Phật môn với đại sư Phổ Tịch. Ở trong chùa, sau một thời gian tu hành, Trương Toại lĩnh ngộ rất nhanh. Sư phụ Phổ Tịch nhận thấy anh đã tu hành khá sâu rồi, “nhất hạnh tam muội”, nên đặt pháp danh cho anh là Nhất Hạnh.

Câu “Nhất hành tam muội” này là một thuật ngữ Phật giáo, có xuất xứ từ “Văn Thù Sư Lợi sở thuyết Ma ha Bát nhã Ba la mật kinh”, ý nghĩa là: người tu hành trong bất kỳ hoàn cảnh nào cũng có thể bảo trì được tâm thái thanh tịnh và từ bi.

Một ngày nọ, đại sư Phổ Tịch mở hội tiệc chay trong chùa, mời tăng lữ các nơi, và cũng mời một học giả tên là Lư Hồng viết một bài văn để ca tụng thịnh hội này để đọc diễn văn trước mọi người. Nhận được sự ủy thác này, Lư Hồng ở nhà tra cứu điển tịch cổ, viện dẫn các kinh điển, bỏ ra thời gian mấy ngày trời viết bài văn mấy nghìn chữ phóng khoáng, hoàn thành bài văn. Ông xem đi xem lại, vui mừng lắm, tự thấy rất hài lòng, thế là đắc ý mãn nguyện đem bài văn đến dự hội đúng giờ.

Khi gặp đại sư Phổ Tịch, Lư Hồng liền nói, bài văn này dài, lại có nhiều chữ lạ ít sử dụng, cần tìm một hòa thượng có học vấn để ông dạy hòa thượng đọc, thì mới tránh mắc lỗi, mới không bị thành trò cười.

Phổ Tịch liền gọi Nhất Hạnh. Nhất Hạnh đến, cầm bài văn lên, nhìn qua một lượt rồi đặt lại lên bàn, cũng không xem nữa, và cũng không hỏi han gì. Lư Hồng trong tâm thầm lắc đầu, thầm nghĩ: “Lão hòa thượng này thu nhận đệ tử kiểu gì vậy, không hiểu lại tỏ vẻ là đã hiểu, tư chất kém quá”.

Một lúc sau, tăng lữ các nơi đã đến đầy đủ, mọi người ngồi với nhau chuẩn bị mở tiệc chay. Trước khi khai tiệc cần phải đọc diễn văn. Chỉ thấy Nhất Hạnh lặng lẽ vững chãi bước đến trước mặt tăng chúng, cất giọng lớn đọc thuộc bài văn của Lư Hồng, giọng đọc du dương trầm bổng khúc chiết, không sai một chữ, khiến Lư Hồng kinh ngạc há miệng tròn mắt nhìn không nói nên lời: “Thì ra người nông cạn chính là mình”.

Lư Hồng liền quay người sang nói với Phổ Tịch rằng: “Vị đệ tử này quá xuất sắc, ngài không thể dạy được, ngài nên để anh ta đi du học đi”.

Năm Khai Nguyên thứ 4 đời Đường Huyền Tông, tức năm 716, Nhất Hạnh được tổ sư Đường Mật là đại sư Thiện Vô Úy quán đỉnh, Nhất Hạnh giúp đại sư phiên dịch “Đại Nhật kinh”. 4 năm sau, Nhất Hạnh lại được một vị đại sư Đường Mật khác là Kim Cương Trí quán đỉnh, và trở thành một cao tăng nổi danh khắp thiên hạ.

Năm 721, Đường Huyền Tông quyết định hiệu đính lịch pháp. Tại sao phải hiệu đính? Bởi vì lịch pháp được sử dụng khi đó, kết quả suy tính ra có sai biệt khá lớn với kết quả quan trắc thực của Thiên Văn Đài. Nói cách khác, đó là lịch pháp đã không còn chính xác nữa.

Ở phần đầu, chúng ta đã nói về người xưa dùng khuê biểu đo chiều dài của bóng mặt trời lúc chính Ngọ, dựa vào số liệu này để chia ra mùa, tiết khí và suy diễn lịch pháp. Tuy nhiên, triều Hán có một nhà thiên văn là Lạc Hạ Hoằng đã phát hiện ra rằng, phương pháp đo đạc tính toán này có một khuyết điểm. Bởi vì thời khắc chính Ngọ, các địa phương có vĩ độ khác nhau thì chiều dài bóng mặt trời cũng khác nhau. Dần dà, tiết khí các địa phương trở nên khác nhau.

Vì vậy, để giải quyết sai số do vĩ độ khác nhau gây ra, Lạc Hạ Hoằng đã đưa ra biện pháp giải quyết trong “Thái sơ lịch” do ông sáng tạo ra, đó là đặt ra một tiêu chuẩn để hiệu chỉnh sai số. Trên cùng một đường Tý Ngọ, tức trên cùng một kinh tuyến, các địa phương ở vĩ độ khác nhau, 2 điểm cách nhau theo đường thẳng 1000 dặm, thì độ dài bóng năng mà khuê biểu đo được ở thời điểm chính Ngọ sẽ lệch nhau một tấc. Đây chính là cái gọi là “Bóng mặt trời cứ 1000 dặm sai lệch 1 tấc”, dùng tiêu chuẩn này để hiệu chuẩn sự khác biệt, đảm bảo mùa và tiết khí ở các địa phương thống nhất về mặt thời gian.

Vào thời Đường, 1 dặm là 443 mét. Phương pháp tính toán này được sử dụng từ thời Hán cho đến tận thời Đường Huyền Tông. Thế nhưng, bản thân “Thái sơ lịch” cũng có vấn đề, tức là cứ 800 năm sẽ có sai số 1 ngày. Sai số này là do sai số của phương pháp đo lường và phương pháp tính toán. Nhưng về sai số này, Lạc Hạ Hoằng cũng bó tay bất lực, nhưng ông cũng đưa ra lời tiên tri rằng: “800 năm sau sẽ có một vị Thánh nhân có thể giải quyết được vấn đề này”.

Lịch pháp không chính xác thì đó là vấn đề rất lớn rồi, nó sẽ làm rối loạn cuộc sống thường nhật và phong tục tập quán của nhân loại, ví dụ ngày lễ Tết, các hoạt động cúng tế và kỷ niệm, đều được sắp đặt căn cứ theo lịch pháp. Nếu lịch pháp sai, thì các hoạt động sẽ diễn ra sai ngày.

Ngoài ra, thiết kế lịch pháp thường thống nhất với các sự kiện thiên văn lớn, ví như các hiện tượng thiên văn Đông chí, Hạ chí, Xuân phân, Thu phân, nhật thực nguyệt thực v.v. Nếu lịch pháp không chính xác, thì thời gian của tất cả những sự kiện này đều sai, sẽ ảnh hưởng để sản xuất nông nghiệp và thờ cúng, thế thì vấn đề rất lớn rồi, do đó Đường Huyền Tông muốn hiệu chỉnh lịch pháp.

Thực ra việc này không phải là trước đó chưa có ai làm thử. Cao nhân thời Sơ Đường là Lý Thuần Phong với danh hiệu Thánh nhân, cho rằng mình ứng với lời tiên tri đó, nên đã tự khích lệ mình dốc sức cố gắng, đã sáng tạo ra “Lân Đức lịch” vào thời Đường Cao Tông, tức là chỉ mới 50 năm trước khi Huyền Tông muốn hiệu chỉnh lịch pháp. Phương pháp tính toán của lịch pháp này lại hiển thị ra sai số với đo thực tế. Huyền Tông không không còn cách nào khác đành phải mời các bậc cao minh đến hiệu đính lịch pháp, nhưng cụ thể làm thế nào thì không ai biết. Điều này khiến Huyền Tông sốt ruột quay như chong chóng.

Lúc này, Tể tướng Trương Thuyết tiến cử một người với Huyền Tông, đó chính là cao tăng Nhất Hạnh.

Cầu mưa và ‘bắt’ sao Bắc đẩu

Đường Huyền Tông lập tức triệu kiến Nhất Hạnh, Huyền Tông hỏi rất khách sáo rằng: “Đại sư, ngài có những sở trường nào vượt trội hơn người?”

Nhất Hạnh mỉm cười trả lời rằng: “Bần tăng cũng không có tài gì, chỉ là trí nhớ tốt chút thôi”.

Huyền Tông trong tâm nghi hoặc: “Trí nhớ tốt thì đâu tính là bản sự gì? Tuy nhiên, cũng không nỡ lập tức đuổi đi, vậy kiểm tra tiếp xem thế nào”.

Huyền Tông cho người đem sổ sách ghi chép tên các quan chức, nhân viên làm việc trong Hoàng cung ra để kiểm tra Nhất Hạnh. Thái giám bê ra một chồng sổ sách cao ngút. Nhất Hạnh tiện tay lấy ra một quyển, rất nhanh chóng lật xong cả quyển, rồi chuyển cho Huyền Tông, và bắt đồng đọc tên trong sổ sách. Huyền Tông nhìn vào sổ theo dõi, quả nhiên không sai một chữ.

Huyền Tông kiểm tra liền mấy quyển sổ sách, Nhất Hạnh đều trả lời trôi chảy, tất cả đều ghi nhớ hết, không sai một chữ, khiến Huyền Tông kinh ngạc không nói nên lời, tâm phục khẩu phục, liền từ bảo tọa bước xuống hành lễ với Nhất Hạnh và nói: “Ngài đâu phải là trí nhớ tốt một chút, ngài quả là Thần nhân”.

Từ đó Huyền Tông gọi Nhất Hạnh là Thánh nhân. Sau đó, Nhất Hạnh bước vào làm việc Hỗn Thiên Tự, cũng chính là Bộ Thiên Văn.

李隆基像.jpg
Đường Huyền Tông - Tranh chân dung thời Minh. (Miền công cộng)

Thời gian không lâu sau, Trường An gặp đại hạn. Huyền Tông nghĩ, vừa may, Nhất Hạnh hiệu xưng là cao tăng, vậy xem pháp lực của ông ấy như thế nào. Thế là Huyền Tông hạ chỉ thỉnh Nhất Hạnh cầu mưa.

Nhận được lệnh vua, Nhất Hạnh cũng không lo lắng, chỉ đưa ra một yêu cầu là tìm một đồ vật có hình rồng ở trong Hoàng cung thì cầu mưa mới thành công.

Huyền Tông sai quan nội thị đưa Nhất Hạnh vào kho nội phủ tìm kiếm, tìm mấy ngày liền đều không có. Tình hình hạn hán của Trường An ngày càng nghiêm trọng, Huyền Tông lòng dạ rối bời không yên thầm nghĩ: “Phải chăng Nhất Hạnh không đủ pháp lực nên mượn cớ thoái thác?”

Lại thêm 2 ngày nữa, Nhất Hạnh tìm được một tấm gương đồng cổ có hình một con rồng cuộn, bèn nói với Huyền Tông rằng: “Đã tìm được rồi, chính là nó, đó là một con rồng thật”.

Huyền Tông nghe xong bán tín bán nghi, bèn sai Nhất Hạnh hãy thử đi. Nhất Hạnh đem chiếc gương cổ đi lập đàn cầu mưa, quả nhiên lập tức có hiệu quả, ngày hôm sau, thành Trường An mưa như trút nước, hạn hán đã được giải quyết. Từ đó Huyền Tông càng khâm phục và nghe theo lời Nhất Hạnh.

Một ngày nọ, nhân viên tiếp đãi vào gặp Nhất Hạnh và nói: “Đại sư, có một cụ bà muốn gặp ngài, nói rằng có việc vô cùng quan trọng”.

Nhất Hạnh bước ra ngoài xem, thì ra chính là cô Vương năm xưa, người đã giúp đỡ ông thuở ấu thơ. Nhất Hạnh vô cùng vui mừng, vội vàng mời bà Vương ngồi xuống, hàn huyên thăm hỏi. Bà Vương gặp Nhất Hạnh, chưa kịp mở miệng mà mắt đã rưng rưng, chỉ thiếu chút nữa là khóc òa lên.

Thì ra con trai của bà Vương phạm tử tội, đã bị tống vào tử tù, sẽ rất nhanh chóng bị hành hình. Khi trò chuyện ở đầu đường cuối phố, bà Vương biết được rằng, Trương Toại, cậu bé mà bà giúp đỡ năm xưa, nay là người có thể nói chuyện trước Hoàng đế, chính là đại sư Nhất Hạnh. Bà Vương mong muốn Nhất Hạnh có thể nói giúp với Hoàng đế giảm hình phạt cho con trai bà, ít nhất là không bị chặt đầu.

Lời thỉnh cầu này khiến Nhất Hạnh rất khó xử, một mặt ông thấy mình không nên can dự vào pháp luật, mặt khác ông lại muốn báo đáp ân đức của bà Vương. Ông suy nghĩ mãi, cuối cùng nói: “Tôi luôn rất muốn báo đáp ân đức của bà, tôi có thể tặng bà của cải gấp 10 lần, nhưng tôi thực sự không thể can dự việc chấp pháp của Hoàng đế”.

Bà Vương nổi giận, đập bàn đứng lên, chỉ vào Nhất Hạnh và nói: “Coi như ta không quen biết ngươi”.

Nói rồi, bà Vương quay người ra đi. Nhất Hạnh vội vàng đi theo không ngừng xin lỗi, bà Vương vẫn không thèm để ý đến, tức giận đùng đùng, không quay đầu lại, cứ thế ra về. Nhất Hạnh than thở một hồi, một mình trở về Hỗn Thiên Tự rồi ngồi xuống trầm tư suy nghĩ rất lâu, sau đó ông gọi mấy người hầu tin cậy lại, ghé tai họ căn dặn như thế như thế, không được mắc sai lầm. Mọi người nghe rõ rồi, bèn chia nhau hành động.

Ở một góc thành Trường An có một cái vườn hoang, không có ai đến, và cũng không có ai chú ý. Một ngày nọ, vào lúc chập tối, khi trăng vừa mới nhô lên nhưng trời vẫn chưa có sao, chợt thấy một bầy động vật giống như lợn xông vào vườn hoang, và bị những người mai phục ở đó dùng lưới bắt được tất cả, sau đó họ bỏ những con động vật này vào trong những cái bao và lặng lẽ vận chuyển đến Hỗn Thiên Tự.

Nhất Hạnh đang chờ họ, đếm tổng cộng 7 cái bao. Ông liền bảo những người hầu bỏ vào một cái vại lớn và đậy nắp gỗ lên, rồi dùng bùn lục nhất phong kín miệng vại. Bùn lục nhất là loại bùn mà Đạo gia dùng để phong kín lò luyện đan. Sau đó, Nhất Hạnh lấy bút chấm chu sa viết hơn chục chữ Phạn trên dải niêm phong, rồi dán lên miệng vại.

Sáng sớm hôm sau, Huyền Tông vội vàng sai người triệu kiến Nhất Hạnh. Vừa gặp, Huyền Tông liền nói: “Vừa rồi quan chức đứng đầu bộ Thiên văn đến báo cáo rằng, đêm qua, 7 ngôi sao Bắc đẩu tự nhiên không xuất hiện, đây có phải là điềm báo đại hung gì không?”

Nhất Hạnh cúi người, chậm rãi nói: “Thời Bắc Ngụy, sao Hỏa đã từng biến mất. Ngày nay ngay cả Bắc đẩu cũng biến mất, đây là việc từ cổ xưa đến nay chưa từng có, đây là Thượng Thiên nghiêm khắc cảnh cáo bệ hạ”.

Huyền Tông bỗng trở nên căng thẳng, Nhất Hạnh nói tiếp: “Bệ hạ chỉ có dùng đại ân đại đức phổ tế xã hội thì mới có thể tiêu tai giải hạn. Những việc có thể cảm động Thượng Thiên như thu gom an táng hài cốt người chết không có ai chôn, phóng thích tù nhân v.v.”.

Nhất Hạnh nói một loạt các việc, cuối cùng ông kiến nghị: “Hoàng thượng, ngài hãy đại xá thiên hạ đi”.

Huyền Tông nghe trong tâm nghĩ: “Ngay cả cao tăng cũng nói thế này, vậy hãy làm ngay việc này thôi”.

Huyền Tông lập tức ban chiếu thư đại xá thiên hạ. Chiếu thư vừa ban ra, tối hôm đó, quan Thái sử liền vào cung báo cáo rằng: “1 ngôi sao trong số 7 ngôi sao Bắc đẩu đã xuất hiện trở lại rồi”.

Nét mặt Huyền Tông vui mừng, cho rằng Nhất Hạnh quả là cao nhân, đã chỉ cho ông con đường chính xác.

Cuộc đại xá thiên hạ kéo dài 7 ngày liền, cứ mỗi ngày lại xuất hiện 1 ngôi sao, đến ngày thứ thì tất cả 7 ngôi sao Bắc đẩu đã xuất hiện trở lại trên bầu trời. Huyền Tông thở phào nhẹ nhõm, còn phía bên kia, con trai của bà Vương cũng vui mừng sung sướng trở về nhà.

Câu chuyện kỳ lạ Nhất Hạnh bắt giữ 7 sao Bắc đẩu này được ghi chép trong các sách “Dậu Dương tạp trở” và “Tống cao tăng truyện”.

Hiệu chỉnh lịch pháp - ứng nghiệm tiên tri 800 năm trước

Sau khi làm phép báo ân, Nhất Hạnh chuyên tâm dốc lòng bắt đầu công việc đo đạc thiên văn. Ông cho rằng, sai số hiệu chỉnh của lịch pháp trước kia là “bóng mặt trời cứ 1000 dặm sai lệch một tấc” không còn đúng nữa, con số này chỉ là suy tính, xưa nay chưa có ai đo lường thực tế nghiệm chứng, do đó đo lượng thực tế để giải quyết vấn đề này là cách tốt nhất. Lãnh thổ Đại Đường rộng lớn, rất phù hợp với việc đo lường thực tế này.

Thế là ông chỉ huy đội ngũ từ nam đến bắc xây dựng 10 điểm quan trắc. Bắt đầu từ Lâm Ấp - quốc gia Champa cổ, tức từ Quảng Bình đến Quảng Nam Việt Nam ngày nay, một mạch cho đến điểm cực bắc là hồ Baikal ở Siberia thuộc nước Nga ngày nay, với chiều dài theo đường chim bay là 3800km, trải dài 35 vĩ độ, từ vĩ tuyến 17 đến vĩ tuyến 52. Mỗi điểm quan trắc đều xây dựng một khuê biểu tiêu chuẩn, cao hơn 2 mét, chủ yếu đo vào chính Ngọ ngày Hạ chí và Đông chí. Ngày Hạ chí, bóng mặt trời ngắn nhất, còn ngày Đông chí thì bóng mặt trời dài nhất, công tác đo lường tiến hành 4 năm, quốc lực hùng cường của Đại Đường đảm bảo công việc được tiến hành thuận lợi. Các nhà thiên văn học đã đo đạc chính xác ở các thành phố cũng như nơi xa xôi hẻo lánh.

Việc đo đạc và tính toán của Nhất Hạnh dùng kiến thức lượng giác, thông qua chiều dài bóng mặt trời đo được, và chiều cao cột trụ khuê biểu đã biết, tính ra được góc chiếu xạ của mặt trời, và vị trí vĩ độ của khuê biểu. Làm thế nào mà Nhất Hạnh lại biết được những tri thức này?

Nhà Thiên văn học người Pháp Jean Marc Bonnet Bidaud nghiên cứu và suy đoán rằng, Nhất Hạnh đã sử dụng tri thức lượng giác có khởi nguồn từ Ấn Độ. Vào thời Đường, những tri thức này thông qua giao lưu tôn giáo và văn hóa đã lưu truyền vào Trung Nguyên rồi. Lý do của Bonnet Bidaud là, sách “Khai Nguyên chiêm kinh” thời Đường Huyền Tông đã bao gồm các biểu thức hàm số lượng giác rồi, mà tác giả của bộ sách này chính là học giả Ấn Độ Cù Đàm Tất Đạt (Gautama Siddha).

Nhất Hạnh làm việc ngày đêm 4 năm trời, đã lật đổ thuyết “bóng mặt trời cứ 1000 dặm sai lệch 1 tấc”. Kết quả ông đo lường được là, bóng mặt trời sai một tấc, đối ứng với khoảng cách thực tế là 250 dặm, tức là 110km ngày nay. Đương thời, kết quả này đã lật đổ số liệu lịch pháp 800 năm qua, đương nhiên độ chính xác không thể nào sánh được với kết quả phép đo lường sau này, vì nó vẫn còn có sai số khá lớn.

Ví dụ, cuối thế kỷ 18, kết quả đo lường của các nhà khoa học Pháp là, bóng mặt trời sai lệch một tấc ứng với khoảng cách 79km, nhưng từ thế kỷ thứ 8 đến thế kỷ 18, trong 1000 năm, kết quả đo của Nhất Hạnh vẫn là chính xác nhất.

Nhất Hạnh trên tem Trung Quốc năm 1995. (Miền công cộng)

Sau đó, Nhất Hạnh dựa vào kết quả đo đạc này dùng kiến thức lượng giác, từ trên một đường kinh tuyến, tính toán ra số liệu ở nhiều địa điểm hơn nữa. Không lâu sau khi hoàn thành công việc chủ yếu trong việc hiệu chỉnh lịch pháp này, Nhất Hạnh quay trở về chùa ở núi Tung Sơn, tiếp tục tu hành ở chỗ thiền sư Phổ Tịch, các công việc còn lại do bộ Thiên Văn hoàn thành. Họ dùng số liệu của Nhất Hạnh và phương pháp tính toán của ông đã hiệu chỉnh lịch pháp cũ, sau đó ban hành lịch mới là “Đại Diễn lịch” vào năm 727. Thời điểm này hoàn toàn trùng khớp với tiên tri của Lạc Hạ Hoằng thời Hán: “800 năm sau Thánh nhân xuất hiện hiệu chỉnh lịch”.

Ngoài lịch pháp, Nhất Hạnh còn lưu lại trước tác Phật học như “Đại Nhật kinh sớ”, đây chính là bản chú thích của “Đại Nhật kinh” - kinh điển quan trọng nhất của Đường Mật - Mật tông Hán truyền.

Vào năm “Đại Diễn lịch” chính thức ban hành, Nhất Hạnh cũng mỉm cười viên tịch. Có thể nói, ông chính là cao tăng khoa học kỹ thuật cực kỳ hiếm có trong lịch sử Phật giáo.

Theo Wenzhao
Trung Hòa biên dịch



BÀI CHỌN LỌC

Cao tăng Mật tông đời Đường khiến 7 ngôi sao Bắc đẩu biến mất, ứng nghiệm tiên tri 800 năm trước