Dung mạo thực sự của cầu vồng có phải là rồng?

Giúp NTDVN sửa lỗi

Cầu vồng sau cơn bão lộng lẫy, mộng mơ như một câu chuyện cổ tích và được ca ngợi là biểu tượng của niềm hy vọng tốt đẹp. Vạn vật đều có linh hồn, dung mạo thực sự của cầu vồng là gì?

"Thái Bình Ngự Lãm" đời Tống trích dẫn "Thượng thư khảo linh diệu" chú thích: "Nhật bàng bạch giả vi hồng, nhật bàng thanh xích giả vi nghê" (Cái màu trắng bên mặt trời là cầu vồng, cái màu xanh đỏ bên mặt trời là cầu vồng). Đời nhà Thanh "Sở từ chương câu" thực ra là chú thích của Vương Dật đời Hán đối với "Sở từ", quyển 3 nói: "Nghê, vân chi sắc tự long dã" (Cầu vồng là mây có sắc màu giống rồng).

Thuyết văn giải tự ghi: "Cầu vồng là đế đông. Hình dạng giống như con côn trùng". Trong "Sơn Hải Kinh" có miêu tả cụ thể hơn, nói: "Cầu vồng ở phía bắc, mỗi cái có hai đầu". Xem chữ "cầu vồng" (Hồng) trong giáp cốt văn, đó là con rồng hai đầu chung thân, tổng hợp tất cả những đặc điểm này thì cầu vồng rõ ràng là dòng dõi của tộc rồng.

Từ "cầu vồng" (Hồng) trong chữ khắc trên xương là con rồng hai đầu (Ảnh: "Bộ sưu tập chữ khắc trên xương oracle" 10405 đảo ngược)/ảnh chụp màn hình Sound Of Hope.

Chu Dịch có "Âm dương bất trắc chi vị Thần" (Thứ mà âm dương biến đổi khôn lường gọi là Thần). Chỉ vì Thần hiện thân nhân gian, biến hóa khó lường, vi diệu khó nhận ra. Người ta luôn nói hiếm thấy rồng, nhưng cầu vồng lại thường thấy, dưới ánh mặt trời sau cơn mưa, lấy ngoại hình cầu vồng triển lộ hình dáng thực.

Tổng tập truyện ghi chép sự thực Bắc Tống "Thái Bình Quảng Ký" ghi lại ghi lại một số cảnh của Thần linh Cầu vồng hạ giới. “Thái Bình Quảng Ký” là phụng ý chỉ của Tống Thái Tông, do 12 người Lý Phưởng, Hỗ Mông, Lý Mục, Thang Duyệt, Từ Huyễn biên soạn một bộ truyện cổ tích bao hàm toàn diện. Bởi vì biên soạn thành sách vào năm thứ hai và thứ ba của Thái Bình Hưng Quốc (977-978), nên lấy ý nghĩa "Thái Bình" để đặt tên cho cuốn sách này.

Cảnh tượng 1: Hạ Thế Long

Trong cung điện cũ của vua nước Việt là Vô Chư, có một cây tùng lớn rỗng ruột, có thể ngồi được hơn mười người. Hạ Thế Long, người Việt, đức cao nhưng không muốn làm quan, thường đến cung điện cũ. Một lần, khi sắp tối trời tạnh mưa ông nhìn thấy một nửa cầu vồng vươn xuống hồ trong cung uống nước, rồi dần dần thu nhỏ lại thành một người đàn ông mặc quần áo đỏ vàng tím xen kẽ đi vào trong cây, rất lâu không thấy ra. Hạ Thế Long thấy lạ, bèn gọi mấy chục thanh niên hàng xóm cùng đến xem, thấy người đàn ông bị rắn đỏ lớn quấn quanh. Mọi người sợ hãi không dám lại gần, chỉ ném đá từ xa. Nghe thấy tiếng lạ trong cây phát ra, giống như tiếng phụ nữ khóc.

Một lúc sau, xuất hiện mây mù, mọi người không nhìn thấy nhau, lại nghe xa xa như tiếng sấm vang lên. Ngay sau đó, một con rồng nhiều màu và một con thiên nga màu đỏ bay ra. Sáng hôm sau, Hạ Thế Long đến xem, thấy trong cây có da rắn màu tím và da giao long năm màu, muốn lấy thì trong cây đột nhiên bốc cháy, cây bị cháy rụi. Chuyện này xảy ra vào tháng 7 năm Vĩnh An thứ ba (năm 260) của vua Ngô Cảnh Đế.

Cầu vồng trong cuốn sách lụa Mawangdui "Các tài liệu khác về thiên văn học và khí tượng học" được vẽ như một con rồng (ảnh Internet)/ảnh chụp màn hình Sound Of Hope.

Câu chuyện này đề cập đến giao long. Trong truyền thuyết, giao long là một loài linh vật, có thể tu luyện thành rồng sau hàng nghìn năm. Quá trình này được gọi là "hoá rồng". Khi 'hóa rồng', sẽ có gió, mưa và sấm sét. Sự kiện tương tự là cá chép vượt vũ môn hóa rồng.

"Thuyết văn Giải tự" có viết: "Giao long là một loại thuộc họ rồng. Khi số lượng cá trong ao đạt 3600, giao long sẽ đến cầm đầu chúng. Giao long có thể dẫn dắt cá bay. Nếu đặt đó (dụng cụ bắt cá bằng tre) vào nước, giao long sẽ bỏ đi".

Đương nhiên, rồng và giao long cũng giống như con người tồn tại sinh mệnh chính - phụ, tốt - xấu, cũng có phân thành thiện - ác. Cuốn "Thế thuyết tân ngữ" ghi lại di tích kể về câu chuyện Chu Xử ở Đông Ngô xuống nước ba ngày ba đêm để diệt giao long ác trở về.

Cảnh tượng 2: Vợ Trần Tế

Vào thời Đông Tấn, có một người đàn ông tên là Trần Tế, làm quan ở quận Lư Lăng. Vợ ông là Tần Thị, khi ở nhà một mình, thường có một người đàn ông cao lớn, đẹp trai, mặc áo choàng màu xanh tím rực rỡ theo đuổi. Hai người thường gặp nhau ở một con suối, nhưng không có quan hệ thân mật. Cách đây vài năm, người đàn ông đến và lấy nước trong một bình vàng, hai người cùng uống. Sau đó, Tần Thị mang thai và sinh một đứa con trai, đứa trẻ trông giống như người, rất bụ bẫm.

Sau đó Trần Tế nghỉ phép về nhà, Tần thị sợ chồng nhìn thấy, nên giấu đứa trẻ trong chậu. Người đàn ông kia nói: “Đứa trẻ còn quá nhỏ, không thể đi cùng tôi”, liền tự mình mặc quần áo cho đứa bé, bỏ vào trong một cái túi màu đỏ. Khi bà Tần ra ngoài cho con bú, lúc nào trời cũng mưa gió, hàng xóm nhìn thấy cầu vồng rơi xuống sân nhà bà. Không lâu sau, người đàn ông kia đến đón đứa trẻ đi, và có người nhìn thấy hai cầu vồng từ nhà bà đi ra. Vài năm sau, đứa trẻ trở lại thăm mẹ. Sau này, bà Tần đi ra đồng và nhìn thấy hai cầu vồng dưới khe núi, bà rất sợ hãi. Một lúc sau, người đàn ông đó xuất hiện và nói: “Là tôi đây, đừng sợ”. Từ đó trở về sau, ông ta không bao giờ đến nữa.

"Người phụ nữ tên Tần Thị này, liệu có phải là một con rồng cái đã xuống trần gian để chịu kiếp nạn hay không? Trong "Nhĩ nhã", có viết: "Đế đông là cầu vồng. Nghê (cầu vồng) là khiết nhị". Từ chú thích của Quách Phác, có thể biết rằng Nghê là cầu vồng cái, Khiết nhị (cầu vồng phụ) là một tên khác của Nghê. Giống như sự phân biệt giữa chim phượng hoàng đực và cái, cầu vồng cũng có thuộc tính âm dương, có khác biệt giữa đực và cái, vòng trong là cầu vồng đực, vòng ngoài là Nghê.

Ảnh Pixabay

Cảnh tượng 3: Tiết Nguyện

Đầu năm Nghĩa Hi của triều đại Đông Tấn (405-419), ở Tấn Lăng có một người tên là Tiết Nguyện. Có cầu vồng thò vào nồi nhà ông uống nước. Sau khi ông phát ra tiếng hút nước thì thấy nước bị hút khô. Tiết Nguyện lấy rượu đổ vào trong nồi, rượu cũng bị hút cạn. Sau đó cầu vồng này phun ra vàng, nồi đầy vàng. Vì thế Tiết Nguyện trở nên giàu có.

Hiện tượng này, chính là hiện tượng mà chúng ta gọi là rồng hút nước. Vương An Thạch đời Bắc Tống có câu thơ "Nhất thương khởi túc vi công thọ, nguyện phú trường hồng hấp bách xuyên" (Một chén đủ để chúc thọ ông, mong cầu vồng hút trăm sông). Hiện tượng Hồng Hấp Thủy có nhiều ghi chép trong các sách cổ.

Tác giả cuốn sách ghi chép "Chỉ Văn Lục" của nhà Thanh, Dung Nột cư sĩ kể lại rằng, mình khi còn bé từng thấy Thần Long hút nước tạo mưa.

Cầu vồng hoá ngọc

"Tác phẩm "Tục thần ký" của nhà văn Đông Tấn Kiền Bảo ghi chép rằng: Sau khi Khổng Tử hoàn thành việc biên soạn "Xuân Thu" và "Hiếu kinh", ông đã tự mình trai giới tịnh tâm, hướng về Bắc Đẩu mà bái lạy, báo cáo với Trời cao. Lúc đó, mây mù cuồn cuộn trên trời, sương trắng bao phủ mặt đất, một dải cầu vồng trắng từ trên trời rơi xuống, hóa thành một viên ngọc màu vàng, dài ba thước, trên có khắc chữ. Khổng Tử quỳ xuống nhận lấy và đọc.

"Trong các sách cổ khác cũng ghi chép về hiện tượng cầu vồng hóa thành ngọc bán nguyệt. Bởi vì ngọc bán nguyệt là cầu vồng rơi xuống nhân gian, đó là lý do tại sao ngọc bán nguyệt có hình dạng nửa vòng cầu vồng. Vật phẩm lễ nghi của người xưa đều có mối liên hệ nội tại với cõi Thần linh, vì vậy ngọc bán nguyệt cũng được gọi là ngọc rồng.

Có một câu nói rằng, nếu ném ngọc bán nguyệt xuống nước, sẽ có một dải cầu vồng xuất hiện. Tất nhiên, điều này sẽ không phải là một viên ngọc bán nguyệt bình thường, giống như tượng Phật trong ngôi chùa cổ và tượng Phật sản xuất trong xưởng có sự khác biệt cơ bản. Loại ngọc bán nguyệt có hình dạng vòng cung hẹp này cũng được dùng làm đồ lễ vật để tế trời đất bốn phương, sau đó được người ta sử dụng rộng rãi làm đồ trang sức. Theo các hiện vật khảo cổ, ngọc bán nguyệt đã tồn tại hơn bảy nghìn năm”.

Ngọc Hoàng thời Tây Chu (Ảnh: sưu tầm của Viện Mỹ thuật Chicago)/ảnh chụp màn hình Sound Of Hope

Từ xưa đã có quan niệm so sánh đức người quân tử với ngọc, nam tử đeo ngọc có thể nhắc nhở bản thân tu dưỡng thân tâm. Người quân tử khiêm nhường, ôn hòa đức độ, hiền lành, tiết chế và rộng lượng. Cũng như cuộc đời, sau khi trải qua phong ba bão táp không nhất thiết sẽ thấy cầu vồng, nhưng cầu vồng nhất định xuất hiện sau mưa gió.

Nhân đây, xin được chiêm ngưỡng bài thơ "Vĩnh hồng nghê" của Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương, khí thế hùng vĩ:

"Ai cầm hai sợi dây xanh đỏ
Đem trời xanh buộc với mây mưa
Ngọc Hoàng đêm qua xe xuất giá
Muôn dặm trời xanh cưỡi cầu ngọc”.

Theo Văn Tư Mẫn - Sound Of Hope
Nguyên Anh biên dịch

Tài liệu tham khảo chính:

  • Thái Bình Quảng Ký của Lý Phưởng thời Bắc Tống
  • Sưu Thần Ký của Kiền Bảo thời Đông Tấn



BÀI CHỌN LỌC

Dung mạo thực sự của cầu vồng có phải là rồng?