Đệ tử của Thần y khám bệnh có huệ nhãn lập nhiều kỳ công

Giúp NTDVN sửa lỗi

Vị y học gia nổi tiếng đời Nguyên Lý Cảo là người có y thuật cao minh, nhất là trị bệnh thương hàn, mụn nhọt ghẻ lở, bệnh về mắt, thì công hiệu rất nổi bật. Ông không sống bằng chữa bệnh, mà coi trọng chữa người. Tại sao ông có thể nhìn ra những căn bệnh mà những thầy thuốc khác không nhìn ra, để rồi lập nên nhiều kỳ công?

Lý Cảo tự Minh Chi, người Trấn Châu. Ông là một trong Tứ Đại Gia của nhà Kim và nhà Nguyên trong lịch sử y học Trung Quốc, và cũng là người sáng lập nên “Tỳ vị học thuyết” trong Đông y. Ông sinh năm Đại Định thứ 20 niên đại Kim Thế Tông (năm 1180), mất năm Nguyên Hiến Tông thứ nhất (năm 1251).

Gia tộc Lý Cảo nhiều đời giàu có, từ nhỏ ông đã yêu thích y dược, chân truyền y thuật từ vị danh y nổi tiếng vùng Yên, Triệu đương thời là Trương Nguyên Tố.

Nói về thành tựu y thuật của Trương Nguyên Tố, sư phụ của Lý Cảo, thì có một câu chuyện truyền kỳ. Trương Nguyên Tố vốn là người Dịch Châu, 8 tuổi tham gia kỳ thi trẻ em, 27 tuổi dự thi tiến sĩ, nhưng vì phạm húy tên của tổ tông của hoàng đế nên bị trượt. Thế là ông từ bỏ nghiệp học đi học y, nhưng sau một thời gian mà vẫn không có thành tựu xuất sắc. Một đêm nọ, Trương Nguyên Tố mộng thấy có người dùng cái rìu lớn bổ trái tim của ông ra, rồi nhét mấy cuốn sách vào trong tim. Từ đó, Trương Nguyên Tố am hiểu y thuật. Lý Cảo dâng lễ nghìn lạng bạc theo Trương Nguyên Tố học y thuật. Sau vài năm, Trương Nguyên Tố đã đem toàn bộ y thuật của ông truyền lại cho Lý Cảo.

Y thuật của Lý Cảo cao minh, đặc biệt nổi bật về chữa những bệnh như thương hàn, mụn nhọt lở loét, và bệnh về mắt. Bởi vì gia cảnh ông đã rất giàu có rồi, cho nên tuy học y nhưng ông không sống bằng nghề y, ông chữa bệnh giúp người, nâng cao danh tiếng của mình. Mọi người cũng không dám gọi ông là thầy thuốc. Các bậc sĩ đại phu đều e dè trước cá tính nghiêm túc chính trực, không chịu phục tùng của ông. Thế nên, nếu không phải bệnh vô cùng nguy cấp thì không ai dám tìm đến ông cầu xin chữa trị.

Nếu không phải bệnh vô cùng nguy cấp thì không ai dám tìm đến ông cầu xin chữa trị. (Tranh: Scretchina)

Ông chủ quán rượu thành Bắc Kinh là Vương Thiện Phủ mắc bệnh tiểu tiện khó, mắt lồi ra, bụng trướng như cái trống, từ đầu gối trở lên cứng như sắp nứt ra, thức ăn ăn vào không thể tiêu hóa bài tiết kịp thời, uống thuốc lợi bài tiết cũng không có hiệu quả.

Lý Cảo nói với các thầy thuốc rằng: “Bệnh rất trầm trọng. Trong “Nội kinh” có viết thế này: Bàng quang là nơi tân dịch tụ tập, phải có khí vận hóa mới có thể bài tiết ra được. Hiện nay dùng thuốc lợi bài tiết mà bệnh tình lại càng trầm trọng, là bởi khí không vận hành. Khởi Huyền Tử nói: ‘Không có dương, thì âm không có điều kiện tồn tại. Không có âm, thì dương không có cách nào khởi tác dụng’. Hiện nay cho ông ấy uống thuốc, đều là thuốc lợi bài tiết có tính dương. Chỉ có dương mà không có sự phối hợp của âm mà muốn phát huy công năng của khí thì có thể làm nổi không?”

Hôm sau, ông đưa cho Vương Thiện Phủ mấy loại thuốc có tính âm để uống, không cần đến thang thứ 2, bệnh đã khỏi rồi.

Viên quan Tây Đài duyện là Tiêu Quân Thụy. Tháng 2 một năm nọ, ông mắc bệnh thương hàn, sốt cao, thầy thuốc dùng bạch hổ thang cho ông uống, mặt bệnh nhân biến thành đen như mực, các triệu chứng bệnh thương hàn cũng không thấy nữa, mạch trầm và yếu, tiểu tiện mất kiểm soát.

Lý Cảo ban đầu không biết ông Tiêu đã uống những loại thuốc nào, sau khi bắt mạch khám bệnh, ông nói: “Đây là do uống nhầm bạch hổ thang trước tiết Lập hạ mà ra. Bạch hổ thang có hàn tính rất mạnh, không phải là thuốc khai thông kinh mạch, nó chỉ có thể khiến phủ tạng sinh hàn, nếu sử dụng không thích hợp, thì sẽ khiến bệnh thương hàn lặn vào trong kinh mạch. Có người đổi dùng loại thuốc có tính nhiệt rất mạnh để bổ cứu, khiến sự nguy hại của âm tà trong cơ thể được ức chế, nhưng các triệu chứng bệnh khác ắt sẽ xuất hiện. Đây không phải là biện pháp bổ cứu cho việc dùng nhầm bạch hổ thang. Thuốc tính ôn có thể khiến khí dương thăng lên, khiến kinh mạch sơ thông, tôi dùng nó”.

Có người đưa ra ý kiến phản bác rằng: “Bạch hổ thanh có tính hàn rất mạnh, không dùng thuốc có tính nhiệt mạnh thì sao có thể bổ cứu được? Phương án trị bệnh của ông sao có tác dụng được?”

Lý Cảo nói: “Bệnh ẩn trong kinh mạch, dương không thăng lên thì kinh mạch không thông, kinh mạch thông rồi thì các triệu chứng bệnh thương hàn sẽ xuất hiện. Chữa bệnh thương hàn thì có gì là khó đâu”.

Ông liền dùng thuốc ôn dương khai thông kinh mạch, quả nhiên, bệnh nhân khỏi bệnh.

Vợ của Ngụy Bang Ngạn bỗng nhiên có màng màu xanh lục ở mắt, từ phía dưới không người mở rộng lên, sưng đau không chịu nổi. Lý Cảo nói: “Màng mắt từ phía dưới phát triển lên, có nghĩa là bệnh từ huyệt âm dương phía dưới mắt mà ra. Màu xanh lục không phải là màu chính trong ngũ sắc, đại khái là do phổi và thận đồng thời bất thường sinh ra bệnh về mắt”.

Ông bèn bài trừ tà khí trong phổi và thận, dùng loại thuốc có thể tiến sâu vào mạch dương minh để điều trị, và có hiệu nghiệm. Nhưng sau một thời gian, căn bệnh mắt của bà lại tái phát lần thứ 3, mà kinh mạch dẫn đến bệnh cũng khác nhau, màu sắc của màng mắt cũng khác nhau.

Lý Cảo nói: “Mấy đường kinh mạch có liên quan đến mắt, một mạch có bệnh thì dẫn đến mắt có bệnh. Đây nhất định là kinh mạch không điều hòa. Nếu kinh mạch không điều hòa thì bệnh mắt sẽ không khỏi được”.

Ông hỏi vợ của Ngụy Bang Ngạn, tình hình quả nhiên là như thế, sau đó dùng thuốc theo chẩn đoán của Lý Cao, bệnh mắt của bà quả nhiên không còn tái phát nữa.

Cháu trai của Phùng Thúc Hiến là Phùng Đống, khoảng 15, 16 tuổi, bị bệnh thương hàn, mắt đỏ, miệng khô, khát nước, mạch đập 7, 8 lần trong một lần hô hấp. Thầy thuốc muốn dùng thừa khí thang để bài trừ bệnh tà, thuốc đang sắc trong ấm. Khi đó, Lý Cảo vừa vặn đi qua, Phùng Thúc Hiến liền đem bệnh tình và thuốc của Phùng Đống nói với ông.

Lý Cảo dùng ngón tay ấn vào mạch, ông vô cùng ngạc nhiên và nói: “Suýt nữa thì hại chết đứa bé. Sách “Nội kinh” có viết rằng: ‘Trên mạch tượng, những mạch đập nhanh là biểu hiện của chứng nhiệt, những mạch đập chậm là biểu hiện của chứng hàn’. Hiện nay mạch đập 8, 9 lần trong một lần hô hấp, đây là nhiệt đến cực điểm rồi. Nhưng sách “Hội yếu đại luận” có viết: ‘Bệnh chứng và mạch tượng là thống nhất với nhau, nhưng nguyên nhân bệnh lại trái ngược nhau, thì xem bệnh thế nào? Khi mạch đến nổi lên, dùng ngón tay ấn xuống mà mạch đập thiếu lực, tất cả các mạch dương đều như thế này, thì đó là âm chứng’”.

Ông sai người lấy gừng khô, phụ tử ra làm khương phụ thang. Ông nói: “Nên dùng phương pháp nguyên nhân nhiệt sử dụng hàn để chữa”.

Thuốc chưa sắc xong, móng tay bệnh nhân đã biến sắc. Một lúc uống liền liều lớn khương phụ thang, thế là mồ hôi nối nhau chảy ra, bệnh nhân liền khỏi bệnh.

Viên quan Thiểm soái là Quách Cự Tế mắc bệnh khô, ngón chân quặp vào lòng bàn chân không thể duỗi ra được. Lý Cao dùng cây kim dài châm sâu vào huyệt ủy cốt, chạm đến xương mà bệnh nhân không thấy đau, chảy ra 1, 2 thăng máu (1 thăng khoảng 0.2 lít), máu đen như mực. Tiếp theo, ông lại châm vào huyệt vị đối ứng phía bên kia chân. Cứ làm như vậy 6, 7 lần, đồng thời cho bệnh nhân uống thuốc 3 tháng, bệnh tình của bệnh nhân chuyển biến rõ rệt.

Vợ của Bùi Trạch mắc bệnh hàn nhiệt, kinh nguyệt bị gián đoạn trong vài năm rồi, đã có triệu chứng thở khò khè và ho. Các thầy thuốc đều dùng các loại thuốc như tắc kè, quế chi, phụ tử cho bà uống. Lý Cảo nói: “Không đúng, bệnh này là âm bị dương ước thúc, việc sử dụng thuốc tính ôn quá mức rồi, do đó không chỉ không có tác dụng, trái lại còn có hại. Cho bệnh nhân uống thuốc hàn khí huyết, thế thì kinh nguyện sẽ bình thường trở lại”.

Sau này quả nhiên là có hiệu nghiệm.

Người đương thời đều coi ông là Thần y. (Tranh: Secretchina)

Phương pháp trị bệnh theo triệu chứng của Lý Cảo đa phần đều tương tự như trường hợp này. Người đương thời đều coi ông là Thần y. Rất nhiều trước tác của ông được lưu truyền trong xã hội.

Lý Cảo, một trong tứ đại y học gia đời Nguyên đã ứng dụng y lý thành thục, công phu chẩn đoán bệnh từ vọng văn vấn thiết của ông luôn có thể nhìn ra nguyên nhân bệnh chứng mà những thầy thuốc khác không nhìn ra. Ông theo học danh y Trương Nguyên Tố, mà y thuật của Trương Nguyên Tố lại được Thần truyền cho từ không gian khác, do đó có thể nói Lý Cảo cũng là một danh y do Thần truyền.

Trung Hòa
Theo Thái Nguyên - Epochtimes



BÀI CHỌN LỌC

Đệ tử của Thần y khám bệnh có huệ nhãn lập nhiều kỳ công