Văn hóa nghệ thuật Nga - Kho báu nhân văn của nhân loại

Giúp NTDVN sửa lỗi

Với tinh thần bắt nguồn từ truyền thống Thiên Chúa giáo cổ xưa, văn học và nghệ thuật của Nga có nội hàm hết sức sâu sắc, là một kho tàng quý giá trong văn hóa thế giới. Điều này một phần cũng bắt nguồn từ sức mạnh tinh thần được tôi luyện bởi cái lạnh giá của vùng đất phương bắc Siberia.

Những tổn thương về mặt tâm linh tinh thần do 70 năm thống trị của Liên Xô cũ gây ra cho người Nga, đến nay vẫn chưa lành. Tuy nhiên, dù là trong sáng tạo văn học nghệ thuật của nước Nga trong thế kỷ mới, hay trong cuộc chiến Nga - Ukraine ngày nay, những người Nga không sợ hãi đang trong làn sóng phản đối chiến tranh, triển hiện ra một dân tộc ngàn năm tuổi, bất chấp sự cai trị vô nhân đạo của Đảng Cộng sản Liên Xô hơn nửa thế kỷ, vẫn giữ được sự kiên định và chất phác bắt nguồn từ tín ngưỡng xa xưa trên vùng đất phương Bắc.

Tôn giáo

So với các nước Châu Âu, sự phát triển văn hóa của Nga còn chậm. Sau thế kỷ thứ 9, với sự du nhập của Cơ đốc giáo (Kitô giáo), nước Nga cổ đại dần dần phát triển chữ viết. Nhà thờ Chính thống giáo của Đế chế Đông La Mã được chỉ định là quốc giáo của Công quốc Nga vào thế kỷ thứ 10, và kể từ đó trở thành lực lượng ảnh hưởng sâu sắc nhất đến người Nga và văn hóa Nga.

Cuộc xâm lược của người Mông Cổ vào thế kỷ 13 đã phá hủy gần như tất cả các thành thị và làm tổn hại nghiêm trọng nền văn hóa Nga cổ đại đã tích lũy qua hàng trăm năm. Mục đích chính của sự cai trị của người Mông Cổ đối với Nga là đánh thuế và bắt buộc đi lính. Việc xây dựng và phát triển văn hóa hầu như không có. Người Mông Cổ thống trị Nga hơn hai trăm năm, duy trì tự do tôn giáo, duy hộ quyền lợi của giáo hội và giáo đồ Chính thống giáo, giúp người dân tìm thấy an ủi của tín ngưỡng trong cuộc sống gian nan, đồng thời giúp cho tương lai giáo hội, chế độ chính trị ổn định.

Trước khi Đế chế Byzantine (Đế chế Đông La Mã) sụp đổ vào năm 1453, một số lượng lớn học giả, tu sĩ, thợ thủ công và dân thường đã chạy nạn khắp nơi, một số người trong số họ đã đến Nga, nơi có cùng đức tin Chính thống giáo, họ mang theo kiến ​​thức, nghệ thuật và công nghệ ở Châu Âu tiên tiến nhất vào thời điểm đó, tạo động lực cho sự phát triển của văn hóa Nga. Các nhà thờ và tu viện dần mọc lên, những nhà thờ có hình dáng củ hành đẹp lộng lẫy là sự kết tinh của văn hóa Đông La Mã và phong cách Nga.

Người Nga tin rằng mái vòm tượng trưng cho vị Thần tối cao và rực sáng vô ngần, nên mái vòm được mạ vàng bạc để lấp lánh dưới ánh nắng, hắt lên trên trần những khối sắc màu như ngọn lửa. Đối với người Nga, số lượng mái vòm cũng rất quan trọng: 13 mái vòm tượng trưng cho Chúa Giê-su và 12 môn đồ; 25 mái vòm bao gồm 13 mái vòm nói trên cộng với 12 nhà tiên tri; còn 33 mái vòm tượng trưng cho những năm Chúa Giê-su sống ở nhân gian.

Hội họa

Những bức tranh Nga còn sót lại sớm nhất là những bức vẽ Thánh trong nhà thờ hoặc tu viện, chẳng hạn như "Chúa Ba Ngôi" được vẽ bởi Andrei Rublev vào nửa đầu thế kỷ 15, có thể thấy phong cách Byzantine mạnh mẽ trong bức tranh có rất nhiều ảnh hưởng đến phong cách hội họa Nga thời kỳ đầu.

Tác phẩm “Chúa Ba Ngôi” của Andrei Rublev. (Phạm vi công cộng)
Tác phẩm “Chúa Ba Ngôi” của Andrei Rublev. (Phạm vi công cộng)

Mãi cho đến khi Peter Đại Đế (1672-1725) xúc tiến Tây hóa, gửi một số lượng lớn sinh viên đến Châu Âu để học các công nghệ và kỹ thuật khác nhau, đồng thời mời về các nhân tài chuyên nghiệp từ nhiều quốc gia, văn hóa Nga mới bắt đầu xích lại gần phương Tây hơn, và hội họa dần dần thoát ly phạm trù của hội họa tôn giáo thời trung cổ, chuyển sang mô tả các nhân vật, hoặc cảnh tượng trong thế giới thực. Hầu hết các bức tranh lúc này đều vẽ chân dung, từ trang phục và tư thế của những người trong tranh, chúng ta có thể cảm nhận được sự xung động văn hóa lúc giao thời giữa cái cũ và cái mới của người Nga khi ấy.

Bức chân dung Sa Hoàng Peter I năm 1838. (Phạm vi công cộng)
Bức chân dung Sa Hoàng Peter I năm 1838. (Phạm vi công cộng)

Trước khi Tây hóa, người Nga vẫn duy trì cách ăn mặc, trang điểm của người Byzantine thời trung cổ, áo choàng dài với ống tay rộng, đàn ông để râu và phụ nữ đội mũ trùm đầu, điều này được coi là rất lạc hậu với các nước Châu Âu lúc bấy giờ. Peter Đại Đế ra lệnh cho đàn ông cắt bỏ râu của họ, và những ai vi phạm sẽ phải chịu thuế nặng; quần áo được thay đổi theo phong cách đương đại của Châu Âu, chẳng hạn như khăn choàng vai, áo vừa vặn và quần bó sát; nghi thức xã hội của Anh và Pháp đã được giới thiệu tới công chúng, chẳng hạn như cách ăn uống thanh lịch, hay khi trò chuyện, uống cà phê thì nói tiếng Pháp, đưa bạn gái đến các bữa tiệc tối, v.v. Cải cách và chuyển đổi văn hóa của Peter Đại Đế đã đưa nước Nga từ một trạng thái phong bế tĩnh, sang thế giới cạnh tranh rộng mở, đưa văn hóa Nga bước vào thời kỳ hoàng kim trong tương lai gần.

Sức mạnh quốc gia và văn hóa của Nga đạt đến đỉnh cao dưới thời trị vì của Catherine Đại đế (1729-1796). Bà vốn là một công chúa người Đức, làm chính biến thay thế người chồng Sa Hoàng, bởi chồng bà là người không được lòng dân. Bà trị vì nước Nga trong 34 năm, là vị Sa Hoàng trị vì lâu trong Đế chế Nga. Catherine là người được giáo dục tốt, thông minh hiếu học lại cương nghị quả quyết, có tài trị quốc và yêu thích văn học nghệ thuật. Một số lượng lớn các tác phẩm nghệ thuật hiện có trong Bảo tàng Hermitage ở St.Petersburg bắt nguồn từ bộ sưu tập của Nữ hoàng Catherine.

Chân dung của Catherine Đại đế. (Phạm vi công cộng)
Chân dung của Catherine Đại đế. (Phạm vi công cộng)

Ngoài việc sưu tầm các kiệt tác, Catherine còn thành lập Học viện Mỹ thuật Hoàng gia (nay được gọi là Học viện Mỹ thuật Repin), lấy kỹ thuật tả thực làm phương thức truyền thống giảng dạy chính, và đào tạo ra nhiều họa sĩ nổi tiếng, chẳng hạn như I. Repin, Surikov, A.I. Kunguy, I.I.Shishkin, V.V. Polenov, V. Vasnetsov, V. A. Serov, Vrubel, v.v.

Chân dung của Ivan IV, được vẽ bởi Vasnetsov, một họa sĩ nổi tiếng của "thời kỳ Phục hưng Nga" vào năm 1897. (Phạm vi công cộng)
Chân dung của Ivan IV, được vẽ bởi Vasnetsov, một họa sĩ nổi tiếng của "thời kỳ Phục hưng Nga" vào năm 1897. (Phạm vi công cộng)

Văn học

Hầu hết các tác phẩm văn học trước khi Peter Đại Đế Tây hóa là những câu chuyện dân gian, được ghi lại dưới dạng ca dao truyền miệng. Quá trình Tây hóa của Peter cũng đã cải cách và chuẩn hóa ngôn ngữ Nga, làm cho cách viết và cách diễn đạt của nó không bị hạn chế bó buộc, văn học bình dân bắt đầu phát triển, đặt nền móng cho thơ ca, văn xuôi và kịch xuất hiện sau này.

Catherine Đại đế thích đọc sách và bị cuốn hút bởi các tác phẩm của các nhà khai sáng tư tưởng như Montesquieu, Voltaire, v.v., và tận lực đưa những lý niệm của họ vào thực tế trong hệ thống chính trị và giáo dục của Nga. Tuy một số cải cách chưa thành công, nhưng công cuộc xây dựng trong giáo dục đã tạo ra mảnh đất màu mỡ, cung cấp những dưỡng chất không thể thiếu cho kho tàng văn học đang chớm nở.

Ngoài việc giới thiệu một số lượng lớn các tác phẩm kinh điển của Châu Âu, và dịch chúng sang tiếng Nga để khai sáng người Nga, Catherine Đại đế còn viết kịch, tiểu thuyết, và viết hồi ký. Ngoài ra, bà cũng hào phóng ủng hộ các triết gia Châu Âu đương thời: bà chưa bao giờ gặp Voltaire, nhưng bà đã hỗ trợ trong 15 năm, đánh giá cao nội dung các cuốn sách của ông cho đến khi nhà triết học này qua đời. Khi chính phủ Pháp đe dọa Diderot và cấm ông xuất bản bách khoa toàn thư, sau khi biết tin, Nữ hoàng đã cung cấp hỗ trợ cho Diderot.

Công sức của các bậc tiền bối đã làm cho văn học Nga tỏa sáng từ thế kỷ 19, mà khởi đầu là các nhà văn lãng mạn như A. Pushkin, M. Lernmontov và những người khác. Trong làn sóng hiện thực tiếp theo, một số lượng lớn các tiểu thuyết gia đẳng cấp thế giới như N. Gogol, I. Turgenev và F. Dostoyevsky, L. Tolstoy, A. Chekhov, v.v., đã đưa nước Nga trở thành một cường quốc văn học.

Bước sang thế kỷ 20, nền văn học Nga tuy còn thịnh nhưng đã mất đi ánh hào quang trước đây. Sau khi Đảng Cộng sản Liên Xô dùng bạo lực đoạt chính quyền, cái gọi là "chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa" được dùng làm giáo điều văn học chính thức, việc đàn áp tư tưởng và ngôn luận đã khiến ngọn lửa văn học dần dần bị dập tắt. Những nhà văn kiên định với những ý tưởng sáng tạo truyền thống, hoặc bị cấm xuất bản tác phẩm của họ, bị lưu đày, hoặc bị sống lưu vong nơi đất khách.

Ví dụ, B. Pasternak, nổi tiếng ở phương Tây với "Bác sĩ Zivago", đã bị áp lực buộc phải từ chối giải Nobel, và sống phần còn lại của cuộc đời mình trong thống khổ và bị cô lập. Các tác phẩm của ông không được phép xuất bản cho đến sau khi ông qua đời. Phải qua nhiều thập kỷ, ông mới được phục hồi danh dự trước khi nước Nga Xô Viết tan rã. Một người đoạt giải Nobel văn học khác, A. Solzhenitsyn, sau khi bị cải tạo lao động, bị tước quốc tịch và sống lưu vong.

Solzhenitsyn năm 1974
Ảnh nhà văn đoạt giải Nobel văn học A. Solzhenitsyn. (wikipedia/ CC BY SA 00)

Mặc dù vậy, nền tảng do văn học Nga đặt ra trước khi bị đỏ hóa, đã tạo động lực cho các nhà văn dưới chế độ hà khắc của Liên Xô cũ sáng tác ra những tác phẩm khổng lồ như "Quần đảo Gulag" của Solzhenitsyn, đã cho thế giới thấy một cách sâu sắc cuộc sống dưới gót sắt của Đảng Cộng sản Liên Xô cùng bộ mặt thật của nó, và sự tàn phá tâm linh nhân loại bởi bạo quyền.

Bước sang thế kỷ 21, những sáng tác văn học trước thời Liên Xô vẫn xuất hiện và tỏa sáng, hoặc với tính châm biếm, hoặc với nhiều phong cách hậu hiện đại khác nhau, với chủ nghĩa hiện sinh và chủ nghĩa biểu tượng, vẫn kết nối với tinh hoa văn học của thời xa xưa mà bóc trần bộ mặt quỷ quái của Liên Xô.

Âm nhạc

Âm nhạc Nga thời kỳ đầu, ngoài âm nhạc tôn giáo ra thì đa số là hình thức dân ca hoặc làm nhạc đệm cho các điệu múa dân gian mà lưu truyền. Khi Peter Đại Đế Tây hóa, ông đã mời nhiều nhạc sĩ Châu Âu đến biểu diễn ở Nga, đồng thời thúc đẩy triều đình và giới quý tộc tổ chức các buổi hòa nhạc hoặc khiêu vũ ở mọi quy mô. Sự đãi ngộ của Sa Hoàng đã thúc đẩy sự tôn trọng các nhạc sĩ trong xã hội và khiến họ có được địa vị cao ở Nga, truyền thống này đã tiếp tục duy trì đến thời hiện đại.

Thế kỷ 18 là thời kỳ để âm nhạc Nga học hỏi và phát triển. Loại hình âm nhạc và nhạc khí truyền nhập từ Châu Âu không ngừng được phổ cập, các quốc gia khác cũng đến biểu diễn nhiều, âm nhạc cổ điển trở thành ngôn ngữ chung của các giai tầng: Tầng lớp trên sẽ khuyến khích con cái họ học âm nhạc và coi đó là thú vui cao quý. Những học sinh có năng khiếu âm nhạc và nhạc sĩ trẻ, bất kể là tầng lớp xã hội nào cũng được đánh giá cao và ủng hộ. Ngay cả những nông nô ở đẳng cấp thấp nhất cũng có thể thành lập ban nhạc, để hát các giai điệu trong lúc nông nhàn.

Thuận theo việc yêu thích âm nhạc dần trở nên phổ biến, người ta không còn hài lòng với việc chỉ tiếp nhận âm nhạc nước ngoài, mà muốn nghe những tác phẩm thể hiện phong cách địa phương. Các nhạc sĩ bắt đầu chủ trương sử dụng các kỹ thuật sáng tác âm nhạc cổ điển để tạo ra âm nhạc mang đậm tính dân tộc Slavơ riêng biệt, và thực hiện các màn trình diễn với trình độ kỹ năng biểu diễn như ở Châu Âu, để thể hiện nhiều tầng thứ và nội hàm sâu sắc của âm nhạc dân tộc Nga. Mong ước này đã được M. Gerinka thực hiện vào thế kỷ 19, mở ra con đường cho âm nhạc Nga hòa nhập các kỹ thuật cổ điển và phong cách dân tộc.

"Cha đẻ của âm nhạc cổ điển Nga" Gerinka, 1840. (Phạm vi công cộng)
"Cha đẻ của âm nhạc cổ điển Nga" Gerinka, 1840. (Phạm vi công cộng)

Các sáng tác của Gerinka rất phong phú và đa dạng, tác phẩm của ông bao gồm nhiều thể loại khác nhau như giao hưởng, opera, nhạc thính phòng và các bài hát. Ông đã sử dụng những bài thơ của người bạn văn học đương thời Pushkin làm ca từ, hòa phối những giai điệu đẹp đẽ và xúc động, sáng tác ra những bài hát lãng mạn, vừa mang tính nghệ thuật vừa mang tính đại chúng. Gerinka là nhà soạn nhạc kiệt xuất đầu tiên của Nga được giới âm nhạc Châu Âu công nhận. Ông đã mở ra kỷ nguyên huy hoàng của âm nhạc cổ điển Nga, và được các thế hệ sau ca ngợi là “Cha đẻ của âm nhạc cổ điển Nga”.

Cũng như các nhân tài trong văn học, thế kỷ 19 cũng là thời kỳ hoàng kim của âm nhạc Nga. Bắt đầu từ Gerinka, nhiều nhạc sĩ bậc thầy đã xuất hiện giống như suối nguồn phun trào. Có những người đề xướng sáng tác mang đặc tính dân tộc, có người tập trung vào giáo dục, có người đặt tâm vào phát triển kỹ thuật diễn tấu, cùng chung sức đưa âm nhạc nghệ thuật trở thành niềm tự hào của người Nga và là báu vật chung của cả nhân loại.

Năm 1856, M. Balakirev, một học trò của Gerinka, thành lập nhóm sáng tác âm nhạc "Mighty Group" (còn được gọi băng nhạc 5 người, Moguchaya Kuchka). Ngoại trừ Balakirev, cả năm người đều bắt đầu là những nhà soạn nhạc nghiệp dư và cuối cùng trở thành bậc thầy về âm nhạc. Ví dụ, Rimsky-Korsakov, người nổi tiếng với các tác phẩm như "Những đêm Ả Rập", ban đầu là một sĩ quan hàng hải, sau đó ông trở thành một giáo sư tại Nhạc viện St. Petersburg. Những tác phẩm đầu tay của ông được sáng tác từ những cuộc hành trình dài trên biển.

Anh em nghệ sĩ piano nổi tiếng A. & N. Rubinstein trở về sau quá trình du học tại Berlin, thành lập Hiệp hội Âm nhạc Nga năm 1859, năm 1862 thành lập học viện âm nhạc đầu tiên của Nga - Nhạc viện St.Petersburg, sau đó tại Moscow thành lập Nhạc viện Moscow. Học viện đề cao các quan niệm truyền thống và có tiêu chuẩn cao, đồng thời đã đào tạo ra rất nhiều nhạc sĩ và nghệ sĩ biểu diễn kiệt xuất, chẳng hạn như P. Tchaikowsky, A. Glazunov, Stein I. Stravinsky, S. Prokofiev, S. Rachmaninov, A. Scriabin. Các nhóm bao gồm St. Petersburg Philharmonic, St. Petersburg Mariinsky Theater, Bolshoi Theater, v.v.

Ngay cả khi trải qua những thay đổi lớn của thế kỷ 20 và sự tàn phá văn hóa bởi chủ nghĩa toàn trị cộng sản Liên Xô, sự kiên định này vẫn không thay đổi, do đó, nền giáo dục âm nhạc và nghệ thuật biểu diễn của Nga vẫn được xếp vào hàng đầu thế giới.

Lời kết

Sau khi Liên Xô cũ tan rã, xiềng xích áp đặt lên nước Nga vẫn chưa hoàn toàn biến mất. Tuy nhiên, với cuộc chiến tranh Ukraine - Nga ngày nay, bàn tay sắt độc tài sẽ cạn kiệt sức mạnh bạo tàn cuối cùng của nó mà sụp đổ. Cũng như những công trình lớn nhỏ nằm rải rác trên khắp vùng đất phía bắc nước Nga, những ngôi nhà thờ vàng lộng lẫy cùng tín ngưỡng của Giáo hội Chính thống đã rung chuông trở lại sau khi Liên Xô tan rã. Nước Nga cổ với đức tin tín ngưỡng lâu đời sẽ xuất hiện trở lại.

Thái Bình
Theo Thái Đại Nhã - Epoch Times



BÀI CHỌN LỌC

Văn hóa nghệ thuật Nga - Kho báu nhân văn của nhân loại