Thiên cổ kỳ thư “Tây Du Ký”

Giúp NTDVN sửa lỗi

Các tình tiết trong “Tây Du Ký” rất sinh động, ly kỳ, ngôn ngữ nhân vật lại vô cùng hài hước và dí dỏm khiến lòng người say mê. Mặc dù vậy, độc giả am hiểu văn hóa truyền thống lại phát hiện ra rằng, đây là bộ tiểu thuyết về tu luyện, khắp trang đầy rẫy những diệu lý huyền cơ.

Những năm qua, tiết mục “Tây Du Ký” trên sân khấu Shen Yun đã nhận được sự hưởng ứng nồng nhiệt của khán thính giả. Hình tượng bốn thầy trò Đường Tăng, Ngộ Không, Bát Giới, và Sa Hòa Thượng trở nên sống động đi vào lòng người. Trên phông nền kỹ thuật số, Tôn Ngộ Không thần thông quảng đại hiện ra chân thực ngay trước mắt người xem. Các câu chuyện giáo dục thông qua hình thức giải trí này đã truyền cảm hứng đến hàng triệu khán giả khắp năm châu.

Vậy, nguyên tác “Tây Du Ký” là cuốn sách như thế nào? Trong kho tàng văn hóa truyền thống rực rỡ như sao sáng, vì sao “Tây Du Ký” lại chiếm một vị trí quan trọng đến vậy? Chúng ta hãy cùng tìm hiểu.

Bộ tiểu thuyết “Tây Du Ký” được Ngô Thừa Ân viết vào thế kỷ XVI giữa thời nhà Minh. Tác phẩm kể về hành trình sang Tây Thiên cầu Pháp của bốn thầy trò Tam Tạng, Tôn Ngộ Không, Trư Bát Giới, Sa Tăng cùng với ngựa Bạch Long.

Đường Tăng lấy kinh là sự kiện có thật trong lịch sử. Đường Tăng, hiệu là Huyền Trang, tục danh là Trần Y, là người huyện Câu Thị, Lạc Châu (nay là Yển Sư, Hà Nam). Ông sinh vào năm Nhân Thọ thứ hai thời Tùy Văn Đế (năm 602), xuất gia khi mới 11 tuổi. Ông sớm lĩnh ngộ từ khi còn rất trẻ và trở thành bậc danh tăng nổi tiếng khắp kinh thành.

Huyền Trang nhận thấy kinh sách lưu truyền ở Trung Thổ có nhiều chỗ không rõ ràng, vì vậy ông quyết tâm sang Tây Trúc thỉnh chân kinh. Xuất phát từ đô thành Trường An, ông bắt đầu cuộc hành trình vào năm Trinh Quán thứ ba thời Đường (năm 629). Trong suốt 17 năm ròng rã ấy, Huyền Trang đã lặn lội hơn 50.000 dặm, đi qua nhiều vùng đất khác nhau, từ Trung Nguyên đến Tân Cương, băng qua Trung Á tới Tây Thiên.

Đến năm Trinh Quán thứ 19 (năm 645), Huyền Trang trở về Trường An mang theo 657 bộ kinh Phật bằng tiếng Phạn. Sau đó, ông tổ chức dịch kinh, tổng cộng đã dịch được 75 bộ kinh và luận, cả thảy gồm 1335 quyển. Nhờ đó, Huyền Trang đã trở thành nhà Phật học, nhà phiên dịch, nhà du hành số một trong lịch sử Trung Hoa, mở ra thời đại mới cho Phật giáo hồng truyền ở phương Đông.

Hành trình sang Tây Trúc thỉnh kinh của Huyền Trang được lưu truyền rộng rãi trong dân gian, dần dần trở thành huyền thoại vừa chân thực vừa ly kỳ. “Tây Du Ký” được viết thành sách vào giữa thời Minh, dựa trên câu chuyện Huyền Trang cầu Pháp, lại thêm vào đó rất nhiều nhân vật và các tình tiết kỳ ảo đầy màu sắc. Ngay sau khi tác phẩm được ra mắt, Đường Tăng, Tôn Ngộ Không, Trư Bát Giới và Sa Tăng đã trở thành các nhân vật nhà nhà đều biết, người người đều hay. Các câu chuyện như “đại náo thiên cung”, “tam đả Bạch Cốt Tinh”, “ba lần mượn quạt Ba Tiêu”... khiến độc giả say mê và tán thưởng, trở thành một bộ phận vô cùng độc đáo và lôi cuốn lòng người trong văn hóa Trung Hoa.

(Ảnh: Shen Yun)

Duyên khởi lấy kinh

Việc lấy kinh bắt nguồn từ một niệm muốn phổ độ chúng sinh của Đức Phật Như Lai. Khi ấy, Như Lai nhìn khắp tứ đại bộ châu, thấy chỉ có Nam Thiệm Bộ Châu là nơi “tham dâm gây họa, hay giết hay tranh, chính là nơi đánh nhau cãi cọ, ác độc thị phi”. Ngài muốn tìm một người đại căn khí, có thể chịu được trăm ngàn cay đắng đến Tây Thiên lấy kinh mang về lưu truyền ở Đông Thổ. Như Lai nói:

“Nay làm sao có được một người có pháp lực sang phương Đông tìm một thiện tín, bảo người ấy chịu đựng gian khổ, vượt qua muôn núi nghìn sông, đến chỗ ta cầu lấy chân kinh, để lưu truyền bên phương Đông mãi mãi, khuyến hóa cho chúng sinh, thì đó là một phúc duyên cao rộng như núi, việc thiện sâu như bể vậy đó.”

Quan Âm Bồ Tát vâng mệnh sang phương Đông, quả nhiên đã tìm được năm sư đồ. Trải qua chín chín tám mươi mốt nạn, cuối cùng năm thầy trò đều đắc được chân kinh, đồng thời tu thành chính quả.

Có thể thấy, thầy trò Đường Tăng đều là những nhân vật có lai lịch phi thường:

Đường Tăng vốn là đồ đệ thứ hai của Phật Tổ Như Lai, tên gọi Kim Thiền Tử. Vì ngủ gật lúc nghe giảng, phạm vào tội khinh mạn Phật Pháp nên bị giáng xuống phàm trần, thác sinh thành Huyền Trang.

Tôn Ngộ Không vốn là con khỉ đá ở động Thủy Liêm, núi Hoa Quả thuộc Đông Thắng Thần Châu. Vì cảm thấy nhân sinh vô thường, Ngộ Không đã tìm đến Tây Ngưu Hạ Châu để tầm sư học Đạo, mong muốn học được thuật trường sinh. Sau này vì tâm tranh đấu không bỏ, Tôn Ngộ Không ngạo mạn đại náo thiên cung, cuối cùng bị Phật Tổ Như Lai giam dưới núi Ngũ Hành.

Trư Bát Giới vốn là Thiên Bồng Nguyên Soái thống lĩnh tám vạn thủy binh trên Thiên Hà, chỉ vì say rượu trêu ghẹo Hằng Nga mà bị Ngọc Đế đánh hai ngàn chùy rồi biếm xuống phàm trần. Chẳng ngờ đâu Bát Giới đi nhầm đường, đầu thai vào bụng heo, biến thành hình dạng xấu xí mõm dài, tai to.

Sa Hòa Thượng vốn là Quyển Liêm đại tướng trông coi xe loan ở điện Linh Tiêu, chỉ vì lỡ tay làm vỡ chén lưu ly trong hội Bàn Đào mà bị đày xuống Lưu Sa ở hạ giới, cứ bảy ngày một lần lại bị phi kiếm đâm vào ngực, phải chịu đói chịu rét nên đành bắt người ăn thịt sống qua ngày.

Còn Bạch Long Mã vốn là con trai của Tây Hải Long Vương Ngao Thuận, chỉ vì phóng hỏa thiêu cháy viên minh châu trên nóc điện mà bị cha tấu lên thiên đình, khép vào tội ngỗ nghịch. Ngọc Đế treo Bạch Long trên không trung, phạt đánh ba trăm roi, không biết ngày nào chết.

Quan Âm Bồ Tát đến Đông Thổ đúng vào năm Trinh Quán thứ 13. Khi ấy Đường Thái Tông mở đại hội thủy lục, mời một vị cao tăng đắc Đạo đến giảng kinh thuyết Pháp. Và vị cao tăng đó không ai khác chính là Huyền Trang. Quân Âm Bồ Tát hóa thân thành một hòa thượng chốc đầu đến điểm hóa cho người lấy kinh, nói rằng cần phải đến chùa Đại Lôi Âm nước Thiên Trúc, nơi Thánh địa của Phật Như Lai để thỉnh kinh Phật Pháp Đại Thừa. Sau đó Đường Thái Tông kết nghĩa huynh đệ với Huyền Trang và phái ngài sang Tây Thiên lấy kinh.

Dọc đường, Huyền Trang thu nhận Tôn Ngộ Không, Trư Bát Giới và Sa Hòa Thượng làm đồ đệ. Tiểu Bạch Long cũng tham gia vào đoàn thỉnh kinh, hóa thân thành bạch mã làm vật cưỡi cho Đường Tăng. Năm thầy trò đồng tâm hợp lực, vượt qua ma nạn trùng trùng, trải qua chín chín tám mươi mốt nạn, cuối cùng công đức trọn vẹn, tu thành viên mãn.

“Tây Du” diệu kỳ

“Tây Du Ký” kỳ diệu, kỳ diệu ở cảnh giới. Không giống như sự kiện Huyền Trang đi lấy kinh trong lịch sử, nội dung “Tây Du Ký” trải dài khắp tứ đại bộ châu, bao trọn khắp thập phương thế giới. Cho dù là Linh Tiêu bảo điện của Ngọc Hoàng Đại Đế hay bảo tháp Lôi Âm của Đức Phật Như Lai, cho dù là Tây Hải Long cung hay U Minh địa phủ, cho dù là sông Thông Thiên cuồn cuộn sóng ba đào hay Hỏa Diệm Sơn phừng phừng lửa cháy… tất cả đều trở thành vũ đài biểu diễn cho người lấy kinh. Muôn vàn cảnh giới khác cũng vậy, nơi thì hùng vĩ đồ sộ, nơi lại hẻo lánh hoang sơ, lại có nơi hiểm độc kỳ quái, kết hợp lại đã tạo nên một không gian vừa kỳ ảo vừa thơ mộng.

“Tây Du Ký” kỳ diệu, kỳ diệu ở tình tiết. Thạch Hầu vốn là tảng đá hấp thụ tinh hoa của nhật nguyệt, kết tụ linh khí của đất trời. Xuất thân ấy vốn đã rất ly kỳ, nhưng điều ly kỳ hơn nữa là, con khỉ đá này không thỏa mãn với phú quý vinh hoa ở Hoa Quả Sơn và sự tự do tự tại trong Thủy Liêm động, mà lại phát tâm tu Đạo. Ngộ Không học bảy mươi hai phép biến hóa, thành thục phép cân đẩu vân, chỉ cần một cái lộn nhào đã đi được mười vạn tám nghìn dặm. Ở thủy cung của Đông Hải Long Vương, Ngộ Không đạt được cây gậy sắt Định Hải Thần Trân, có thể biến hóa như ý, sau này lại nhờ lò luyện đan của Thái Thượng Lão Quân mà luyện được hỏa nhãn kim tinh, có thể lên trời xuống đất, hô phong hoán vũ. Những điều này vốn đã rất thần kỳ, nhưng còn thần kỳ hơn nữa là, Ngộ Không dẫu thần thông quảng đại đến mấy vẫn không thể thoát khỏi lòng bàn tay của Phật Tổ Như Lai.

Lại nói, Mỹ Hầu Vương có thật có giả, Đường Tăng có thật có giả, chùa Lôi Âm cũng có thật có giả. Những điều này vốn đã rất rất kỳ lạ, nhưng còn kỳ lạ hơn nữa là, ngay cả kinh Phật cầu được ở thế giới Cực Lạc cũng có thật có giả. Những tình tiết khác như đấu Pháp ở Xa Trì quốc, trộm quả Nhân sâm ở quán Ngũ Trang, mang thai ở sông Tử Mẫu, làm thơ ở am Mộc Tiên… cũng như vậy, kết hợp lại đã tạo thành vô vàn kỳ tình tráng thái, diệu tưởng thiên ngoại.

“Tây Du Ký” kỳ diệu, kỳ diệu ở nhân vật. Thế giới ấy không chỉ có phàm nhân mà còn có vô số Thần, Phật, Tiên, ma, quỷ, quái. Trong số các Thần, Phật, Tiên và yêu quái ấy, ngoài những vị thuộc Phật gia như Như Lai, Bồ Tát, La Hán, Kim Cang… thì còn có những vị trong Đạo gia như Ngọc Đế, Vương Mẫu, Lão Quân, Thiên Vương; bên cạnh các chính Thần còn có đủ loại yêu ma và quỷ quái.

Trong năm thầy trò, Bạch Long hóa thành ngựa vốn đã ly kỳ rồi, càng ly kỳ hơn nữa là Sa Tăng làm yêu quái ở sông Lưu Sa, phải ăn thịt người để sống, nhưng một khi quy y chính Pháp liền chịu khó chịu khổ, Đạo tâm kiên định mười phần. Trư Bát Giới tham ăn lười làm, sắc tâm không bỏ, từ Thiên Bồng Nguyên Soái bỗng chốc biến thành hình dạng mõm dài tai to. Điều ấy vốn đã rất kỳ lạ, càng kỳ lạ hơn nữa là một con khỉ đá lại có ngộ tính rất cao, giỏi trừ yêu diệt quái, có thể thông thiên nhập địa, lên trời xuống đất, một lòng bảo vệ Đường Tăng đi Tây Thiên lấy kinh.

Còn Thánh tăng Huyền Trang, một khi đã thề sang Tây là dẫu chết nhiều lần cũng không hối tiếc. Mặc dù nơi nơi đều có yêu ma chực chờ để “ăn thịt Đường Tăng”, nhưng nhờ có bốn đồ đệ cao cường phò trợ và Thần Phật các phương bảo hộ nên Đường Tăng có thể gặp dữ hóa lành, chuyển nguy thành an, cuối cùng đến được Lôi Âm, công thành viên mãn.

Huyền cơ diệu lý

Tục ngữ có câu: “Ngoài nghề xem náo nhiệt, trong nghề nhìn môn đạo”. Điều khiến độc giả thấy say mê thích thú là các tình tiết trong “Tây Du Ký” rất sinh động, ly kỳ, ngôn ngữ nhân vật lại vô cùng hài hước, dí dỏm. Nhưng những người am hiểu văn hóa tu luyện lại phát hiện ra rằng, đây là bộ tiểu thuyết về tu luyện, khắp trang đầy rẫy những diệu lý huyền cơ.

Sau khi Đường Tăng thu nhận Ngộ Không, nạn đầu tiên họ gặp phải chính là sáu tên cướp chặn đường: Một người tên là “Nhãn Khán Hỉ” (mắt thấy mừng), một người gọi là “Nhĩ Thính Nộ (tai nghe giận), một người tên là “Tị Khứu Ái” (mũi ngửi thích), một người gọi là “[Thiệt Thường Tư” (lưỡi nếm nghĩ), một người tên là “Ý Kiến Dục” (ý thấy muốn), và một người gọi là “Thân Bản Ưu” (thân vốn lo). Sáu tên cường đạo này ẩn dụ cho “lục căn” mà Phật gia giảng: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý. Đánh chết lục tặc cũng chính là bài trừ sự can nhiễu từ các giác quan vốn mang đến phiền não cho người tu luyện.

Chín chín tám mươi mốt nạn, mỗi một nạn đều ứng với một tâm chấp trước mà người tu luyện cần phải bỏ. Muốn phá trừ những quan nạn này, điều quan trọng không phải là tiêu diệt yêu ma quỷ quái hữu hình mà là cần trừ bỏ ma chướng trong tâm. Do đó, trong tám mươi mốt nạn ấy, một số nạn nhắm vào tâm sợ hãi của Đường Tăng, một số quan ải nhắm vào tâm tranh đấu của Ngộ Không, và một số khảo nghiệm nhắm vào tâm tham ăn, tâm sắc dục và tâm lười biếng của Bát Giới.

Hồi thứ 50, trong lúc Ngộ Không bay đi tìm thức ăn, ĐườngTăng, Bát Giới và Sa Tăng đến một tòa lầu cũ, thấy bên trong bày ba chiếc áo thêu gấm. Vì trời lạnh giá, Bát Giới và Sa Tăng không giữ vững bản thân trước sự cám dỗ nên muốn “thử một tí cái đồ mới cho nó ấm cật”. Không ngờ vừa mặc vào người, trong tích tắc chiếc áo liền “trói hai cánh tay dán chặt vào bụng”. Ngộ Không trải qua đủ mọi khó khăn mới mời được Thái Thượng Lão Quân đến hàng phục Độc Giác Tỷ đại vương. Thì ra, yêu quái động Kim Đâu chính là con trâu xanh của Thái Thượng Lão Quân.

Trong hồi thứ 56, Ngộ Không đánh chết băng đảng sơn tặc, Đường Tăng tức giận liền niệm Khẩn cô nhi chú và đuổi Ngộ Không đi. Ngộ Không khởi tâm tức giận, hậm hực bay đến Nam Hải tìm Quan Âm Bồ Tát. Nhân lúc thầy trò bất hòa, Ngộ Không giả đã thừa cơ đến bên cạnh Đường Tăng, dùng Kim cô bổng “nhằm xương sống Tam Tạng nện một phát, Tam Tạng ngã lăn ra đất ngất lịm, chẳng nói được câu gì”.

Sa Tăng đến Hoa Quả Sơn tìm Ngộ Không để đòi lại hành lý, thấy Ngộ Không đang ngồi trên đài cao, tuyên bố sẽ lập đoàn đi Tây Thiên bái Phật cầu kinh. Sa Tăng liền đến Nam Hải tìm Quan Âm Bồ Tát, nhưng phát hiện Ngộ Không vẫn đang đợi ở đây. Sa Tăng cùng với Ngộ Không cấp tốc bay về Hoa Quả Sơn, quả nhiên thấy một “Hành Giả” đang chiễm chệ ngồi trên ngai hí hửng rượu nồng.

Ngộ Không thật và Ngộ Không giả trông giống hệt như đúc, cả hai giằng co với nhau, vừa đi vừa đánh, đánh một mạch từ Hoa Quả Sơn đến tận Nam Hải, rồi lại từ Nam Hải đánh lên Thiên đình. Nhưng trên Thiên đình không vị Thần nào phân biệt được, ngay cả kính chiếu yêu của Thác Tháp Lý Thiên Vương cũng không thể tìm ra ai là thật, ai là giả. Đến cuối cùng chỉ có Như Lai Phật Tổ mới phân biệt được. Thì ra, Ngộ Không giả là con khỉ sáu tai gọi là Lục Nhĩ Di Hầu, giống hệt Ngộ Không thật từ hình dạng đến giọng nói.

Vậy rốt cuộc Lục Nhĩ Di Hầu là ai? Nhìn nhận từ góc độ tu luyện sẽ không khó lý giải. Lúc ấy Ngộ Không bị sư phụ trách mắng nên nhất thời nổi tâm oán hận, con khỉ sáu tai Lục Nhĩ Di Hầu chính là thể hiện của ma tính và sân tâm của Ngộ Không. Đề mục của hồi 58 “Nhị tâm làm loạn càn khôn rộng, một thể khó tu tịch diệt chân” và câu thơ cuối chương hồi “Thần về tâm xả thiên kia định, biết rõ nguồn dòng đơn luyện thành” đã chỉ ra rằng: Lục Nhĩ Di Hầu chính là ma tính của Ngộ Không huyễn hóa mà thành, nếu có thể “thần quy tâm xả” thì Ngộ Không giả cũng tự nhiên biến mất không còn bóng ảnh.

Trên đường đến Tây Thiên, các thầy trò lại gặp phải tai họa “chùa Tiểu Lôi Âm”. Trong hồi thứ 65, thầy trò Đường Tăng đến một ngọn núi cao, nơi ấy có tòa bảo tháp sơn son chạm trổ, thực là một khối kiến trúc lộng lẫy tráng lệ, xung quanh lại có mây lành bao phủ, hào quang ngút trời. Duy chỉ riêng Ngộ Không là nhìn thấy yêu khí, còn Đường Tăng, Bát Giới và Sa Tăng lại hồ đồ cúi đầu bái lạy, ngỡ tưởng người ngồi trên điện kia là Phật Như Lai. Ngay sau đó yêu quái liền bắt cả bốn sư đồ cùng với hành lý và con ngựa bạch. Cuối cùng, may nhờ Phật Di Lặc ra tay thu phục Hoàng Mi Lão Quái, thầy trò Đường Tăng mới qua được nạn này.

Từ góc độ tu luyện mà lý giải về quan nạn “chùa Tiểu Lôi Âm”, có thể nói các pháp môn tu luyện cũng có thật có giả, liên tục đến thời khắc cuối cùng trước khi viên mãn, người tu luyện liên tục phải vượt qua khảo nghiệm. Là người tu hành thì cần kiên định tín tâm, tu luyện chuyên nhất, nếu lầm lỡ bước vào oai môn tà đạo thì sẽ không cách nào tu thành chính quả.

“Thanh Thải Hội Toàn Bản Tây Du Ký” (Ảnh: Khu vực công cộng)

Trong hồi thứ 98, bốn thầy trò đã đến được Lôi Âm và bái kiến Đức Phật Như Lai. Hai tôn giả A Nan và Ca Diếp phụng mệnh Phật Tổ, đưa Đường Tăng đến bảo các lấy kinh. Ở đây có một chi tiết khiến người đọc không khỏi thắc mắc: Hai tôn giả A Nan và Ca Diếp cứ một mực đòi thầy trò Đường Tăng phải hối lộ. Bốn thầy trò đã phải trải qua trăm ngàn cay đắng mới đến được đất Phật, vậy mà hai tôn giả chỉ vì không đòi được tiền quà lễ lại nhẫn tâm truyền cho họ bộ kinh không chữ. Hành giả tố cáo sự việc ấy với Như Lai, Phật Tổ đáp:

“Nhà ngươi chớ làm ầm lên nữa. Việc hai người vòi lễ các ngươi ta đã biết rồi. Có điều kinh cũng không phải trao cho một cách dễ dàng, không thể lấy không được. Trước kia các Tỳ Kheo thánh tăng xuống núi cũng đem kinh này tụng hết một lượt cho nhà trưởng giả họ Triệu ở nước Xá Vệ, giúp cho nhà ấy người sống yên ổn, kẻ chết siêu thoát, thế mà chỉ lấy có ba đấu ba bơ vàng cốm của họ mang về thôi. Ta còn bảo họ bán kinh rẻ quá, con cháu đời sau lấy tiền đâu mà tiêu. Nhà ngươi tay không đến cầu, nên họ mới trao cho những quyển trắng tinh. Quyển trắng tinh là chân kinh không chữ, cũng là những kinh hay. Các ngươi là chúng sinh ở cõi Đông u mê ngu tối, lẽ ra chỉ nên trao cho những thứ đó thôi”.

Hai tôn giả lại dẫn thầy trò đến lầu ngọc gác tía để đổi kinh, nhưng cũng như lần trước, họ vẫn đòi của đút. Tam Tạng không còn cách nào khác, đành bảo Sa Tăng lấy ra chiếc bát tộ vàng mà vua Đường ban tặng rồi dâng lên hai tôn giả. A Nan “ngượng ngùng mặt mũi nhăn nhúm, nhưng vẫn giữ chặt chiếc bát không rời”.

Xưa nay tình tiết này vẫn được coi là ngòi bút châm biếm của Ngô Thừa Ân: Ngay cả Tây Thiên Cực Lạc cũng có nạn tham ô! Kỳ thực, người tu luyện cần phải tu bỏ hết thảy mọi tâm chấp trước mới có thể công thành viên mãn. Đường Tăng vẫn còn tham luyến chiếc bát tộ vàng, ẩn sau đó là tâm tham tài vật và cái tình với vua Đường – những tâm này vừa khớp đều là thứ mà người tu luyện phải bỏ. Nếu không thể tu khứ chấp trước thì không thể nói đến chuyện viên mãn được.

Mỗi một quan, mỗi một nạn mà thầy trò Đường Tăng đối mặt đều đã được Phật Tổ và Bồ Tát an bài. Hoàng Phong quái là con chồn lông vàng dưới chân núi Linh Sơn của Linh Cát Bồ Tát. Yêu quái Hoàng Bào là Khuê Mộc Lang, một trong nhị thập bát tú. Kim Giác đại vương và Ngân Giác đại vương là hai tiểu đồng trông coi lò vàng và lò bạc trên cung Đâu Suất. Linh Cảm đại vương là con cá vàng trong ao sen của Quan Âm Bồ Tát. Độc Giác Tỷ đại vương là con trâu xanh của Thái Thượng Lão Quân. Hoàng Mi Lão Quái là tiểu đồng lông mày vàng giữ khánh của Đức Phật Di Lặc. Yêu quái sư tử lông xanh (Thanh Mao Sư Tử) và yêu quái voi răng vàng (Hoàng Nha Lão Tượng) là vật cưỡi của Văn Thù và Phổ Hiền Bồ Tát, còn yêu quái đại bàng (Đại Bằng Điêu) là cậu của Phật Như Lai. Quan Âm Bồ Tát lợi dụng quan hệ nhân duyên để giải quyết nợ nghiệp giữa các sinh mệnh, đồng thời giúp thầy trò Đường Tăng tu tâm trừ nghiệp, công thành viên mãn.

“Tây Du Ký” bén rễ từ văn hóa tu luyện bác đại tinh thâm trong văn hóa truyền thống Trung Hoa. Các tình tiết và nhân vật, cùng với các cuộc đối thoại và thơ từ trong sách đều có ý nghĩa sâu xa, ẩn chứa nội hàm to lớn. Đoàn Nghệ thuật Shen Yun đã đưa “Tây Du Ký” lên vũ đài năm châu, mang đến cho khán thính giả những nụ cười sảng khoái, đồng thời cũng gửi gắm trong đó nội hàm tu luyện. Khi toàn thế giới đã có liễu giải mới và thể nghiệm mới về văn hóa tu luyện, “Tây Du Ký” - báu vật trong kho tàng tiểu thuyết cổ điển - chắc chắn sẽ càng tỏa sáng rực rỡ hơn.

(Đăng lại với sự cho phép của trang Nghệ thuật Biểu diễn Shen Yun, bản quyền thuộc về Shen Yun Performing Arts)

Theo Epoch Times
Minh Hạnh biên dịch



BÀI CHỌN LỌC

Thiên cổ kỳ thư “Tây Du Ký”