Từ một giai đoạn lịch sử nghệ thuật thấy được sự thay đổi của tư tưởng nhân loại (Phần 3)

Giúp NTDVN sửa lỗi

Xem lại Phần 1, Phần 2

Tác động của chủ nghĩa nhân văn

Khi nói đến giai đoạn lịch sử thời kỳ Phục hưng, chúng ta không thể không nhắc đến chủ nghĩa nhân văn. Trên thực tế, con người ngày nay không có một định nghĩa thống nhất về "chủ nghĩa nhân văn", bởi vì trong các thời đại khác nhau và dưới bối cảnh văn hóa khác nhau đã từng xuất hiện các lý thuyết khác nhau về chủ nghĩa nhân văn. Trong đó cũng có không ít quan điểm và lập trường bất đồng, thậm chí là đối lập.

Danh từ “Humanitas” trong tiếng Latinh cổ điển có nguồn gốc từ hơn 2.000 năm trước, được giải nghĩa là “nhân tính, nền văn minh, và lòng tốt”. Đến thế kỷ XVIII thì xuất hiện từ "Humanism” (Chủ nghĩa nhân văn). Quá trình này đã tiếp nhận rất nhiều nhân tố và làm cho nội hàm của danh từ trên trở nên phong phú hơn. Sau khi danh từ này được truyền sang phương Đông, nó được người Nhật Bản dịch là "chủ nghĩa nhân văn", sau đó người Trung Quốc đã dùng luôn cách dịch của tiếng Nhật.

Còn các nhà sử học nói chung vẫn quen gọi phong cách tư tưởng xuất hiện từ thế kỷ XIV đến thế kỷ XVI trong lịch sử là “chủ nghĩa nhân văn” hơn. Đó là kiểu tư tưởng khác với thời Trung cổ, nó chú trọng hơn đến lý niệm của bản thân con người, tức là những quan niệm, khái niệm hình thành sau quá trình suy ngẫm và suy lý. Có thể coi đó là một trào lưu tư tưởng bao trùm cả thời kỳ Phục hưng.

Kỳ thực, bài viết này đã nói về yếu tố nhân văn ở phần trước khi nhắc đến “Bảy Nghệ thuật Nhân văn”. Cũng là nói, chủ nghĩa nhân văn không phải mới xuất hiện ở thời kỳ Phục hưng, nhưng cùng với dòng chảy lịch sử lâu dài, trong quá trình tôn giáo nguyên thủy từng bước tiến tới thời mạt pháp, trường vật chất thuần chính ban đầu của nó đã dần bị trộn lẫn với những thứ ngoại lai, bị phá hoại mà không hay biết.

Trong thời kỳ ‘thành-trụ’ (hình thành và phát triển tới đỉnh cao) của tôn giáo, nhờ năng lượng tích cực mạnh mẽ của tôn giáo nguyên thủy, các loại học thuyết và lý luận hỗn tạp trong xã hội tự khắc không thể lay chuyển chính niệm vững chắc của con người, vì khi đó nhân tâm đã quy chính. Khi ngày càng thiếu môi trường hoạt động, các loại lý thuyết đó sẽ tự nhiên biến mất. Nhưng khi tôn giáo nguyên thủy dần bị lai tạp và suy bại, tín ngưỡng và đạo đức cũng không còn đủ lực để ước thúc nhân tâm, con người sẽ tìm kiếm “tự do” bên ngoài và ngày càng truy cầu vật ngoài thân.

Tuy nhiên, đối với những người có nền tảng tư tưởng yếu kém, thông thường khi cuộc sống vật chất của họ càng tăng tiến thì cuộc sống tinh thần càng thụt lùi, bởi tâm trí chỉ xoay quanh những thứ vật chất và bị chúng kìm hãm. Cứ tiếp tục phát triển như vậy sẽ hình thành quan niệm theo chủ nghĩa duy vật, và chờ đợi họ là sự hủy diệt về tâm linh.

Kể từ khi Tòa Thánh – cơ quan thống trị tối cao của Giáo hội Công giáo đóng tại Vatican – bán “giấy chứng nhận đại xá” (được người đời sau gọi là “giấy chuộc tội” hay “giấy xá tội”) để kiếm tiền, tín ngưỡng cũng bắt đầu bị thương mại hóa. Cho nên sự suy tàn của tôn giáo này là điều không thể tránh khỏi.

Certificate of having gone to confession.png
Giấy chứng nhận đại xá cấp năm 1521. (Public Domain)

Nói đơn giản hơn thì là, khi hệ văn hóa của tôn giáo nguyên thủy bị lai tạp và suy yếu, tới mức chiếc lồng bảo vệ bị phá vỡ, các nhân tố bên ngoài sẽ xông vào và tác động vào bộ não con người. Thứ văn hóa “mới lạ” khiến tư tưởng của con người sôi sục và tự do hóa, từ đó xuất hiện tình trạng đạo đức dần sa đọa, biến chất. Đây cũng có thể nói là một sự sắp đặt tất yếu của lịch sử. Phía sau thời kỳ Phục hưng huy hoàng và tráng lệ là sự bại hoại và mất mát của luân lý và đạo đức, thậm chí ngay cả giáo hội cũng bị thế tục hóa về chính trị và kinh tế.

Ngày nay, có không ít người lầm tưởng rằng chủ nghĩa nhân văn của thời kỳ Phục hưng là chủ trương lấy con người làm gốc để đối kháng với Thần quyền và giáo quyền, nhưng thực tế không phải vậy (‘Thần quyền’ là một loại thể chế chính trị trong đó một hoặc nhiều vị Thần được công nhận là cơ quan quyền lực tối cao, và đưa ra những chỉ dẫn thần thánh cho người đại diện ở thế gian để quản lý các công việc chính trị thường ngày; ‘giáo quyền’ là chủ nghĩa ủng hộ sự ảnh hưởng và quyền lực của giới giáo sĩ trong các vấn đề thế tục hoặc chính trị). Ngược lại, vì thời đó vẫn còn một môi trường toàn dân tin vào Chúa, cho nên dù đạo đức có suy thoái nhưng cũng không ảnh hưởng đến niềm tin của con người vào sự tồn tại của Chúa.

Vì vậy, các học giả của chủ nghĩa nhân văn thời đó về cơ bản là những người hữu Thần (trái ngược với ‘người vô Thần’). Hơn nữa, hầu hết họ đều là người công giáo chính thức, không ai phản đối sự tồn tại của Chúa hay địa vị thống trị của Tòa Thánh.

Nhưng cũng vì những người này có nhiều quan hệ mật thiết với Giáo hội Công giáo về mặt chính trị và kinh tế, nên đại đa số họ sẽ không đoạn tuyệt với Giáo hội, hoặc ít nhất là về hình thức vẫn duy trì sự trung thành với Giáo hội. Còn Tòa Thánh cũng giữ thái độ bảo hộ cho chủ nghĩa nhân văn, bởi vì rất nhiều học giả theo chủ nghĩa nhân văn đều tôn sùng sự xa hoa và hưởng lạc, điều này cũng rất hợp với khẩu vị của những người cai trị Tòa Thánh lúc bấy giờ.

Thời đó, các giáo hoàng và giáo sĩ cấp cao có nhiều của cải thích sưu tầm những cổ vật và tác phẩm nghệ thuật có giá trị. Họ cũng một thời tôn sùng văn hóa cổ điển của Hy Lạp cổ và La Mã cổ. Giáo hoàng Nicholas V, Giáo hoàng Sixtus IV, Giáo hoàng Leo X, v.v. đều là những nhà tài trợ kinh tế cho cuộc vận động chủ nghĩa nhân văn. Kỳ thực, rất nhiều văn nhân và nghệ thuật gia trong thời kỳ Phục hưng đều tạo ra những đổi mới trong lĩnh vực văn hóa và nghệ thuật dưới sự bảo hộ của Tòa thánh.

Ngay cả Francesco Petrarca, người được giới học thuật ngày nay gọi là "Cha đẻ của Chủ nghĩa nhân văn", cũng được Giáo hoàng ở Avignon sủng ái và tín nhiệm hết mức, ông ta cũng được hưởng thu nhập do giáo hội cấp phát.

Portrait of Pope Leo X and his cousins, cardinals Giulio de' Medici and Luigi de' Rossi (by Raphael).jpg
Bức tranh “Pope Leo X with Cardinals Giulio de’Medici and Luigi de’Rossi” vẽ Giáo hoàng Leo X (giữa) cùng các Hồng y Giulio de’Medici (trái) và Luigi de’Rossi (phải), sáng tác năm 1518-1520, kích thước 154 cm × 119 cm, sơn dầu trên gỗ, của danh họa Raphael (1483-1520). (Public Domain)

Có thể thấy, sự trượt dốc của tín ngưỡng tôn giáo phương Tây cũng là do chính nó tạo thành. Phải khẳng định rằng, những điều do Cơ đốc giáo (Kitô giáo) nguyên thủy truyền lại là ngay chính, một số phương pháp tu luyện được truyền lại từ thời Hy Lạp cổ cũng là ngay chính. Chẳng qua là mỗi bên có một con đường đi khác nhau. Còn lịch sử mà chúng ta thấy ngày nay là kết quả của việc trộn lẫn các hệ văn hóa khác nhau vào làm một.

Phương pháp tu luyện nguyên thủy là tu tâm, vốn giản đơn và thuần chính, nhưng đã phải nhường chỗ cho những thuật ngữ triết học tối nghĩa khó hiểu và những biện chứng hàn lâm khiến con người phải vắt óc nghiên cứu. Lòng thành kính hướng về Thần đã phải nhường chỗ cho những lý thuyết Thần học phức tạp và những nghi lễ tôn giáo ngày càng hời hợt.

Đến nay, những chân ngôn thần thánh của Thần Phật đã bị rất nhiều người coi là một thứ học vấn dùng để ra vẻ phong nhã. Những người vô Thần thì coi đó như một mớ chuyện hài được lưu truyền từ lâu. Đây là bài học giáo huấn sâu sắc mà lịch sử đã dạy cho nhân loại. Lấy lịch sử làm gương, trên con đường trở về với truyền thống, nếu muốn nhìn rõ tất cả, con người phải dùng một trí huệ cao lớn hơn để nhìn nhận lịch sử và các trào lưu tư tưởng thì mới có thể thực sự phục hưng văn hóa truyền thống và quy chính bản thân.

Lời kết

Do giới hạn về độ dài bài viết, tác giả xin ngừng tại đây. Bài viết đã cố gắng sử dụng ngôn ngữ đơn giản để giải thích ngắn gọn một số nhân tố tiêu biểu trong bước ngoặt văn hóa và tư tưởng của nhân loại thời đó, cũng như bày tỏ một số lý giải rất hạn chế của tác giả.

Trên thực tế, có quá nhiều tình huống và nhiều nhân tố khác nhau. Sự thực về giai đoạn lịch sử đó vượt xa những mô tả nông cạn và bề mặt trong bài viết này, còn nhiều yếu tố phức tạp và những nội hàm to lớn khác chưa được viết ra.

Tác giả không muốn viết một chuyên khảo về lịch sử nghệ thuật hoặc triết học với nhiều thuật ngữ chuyên môn, như vậy sẽ ảnh hưởng đến những độc giả không chuyên, do đó đã xóa một lượng lớn nội dung chuyên môn khi hiệu đính; đồng thời cũng đã cố né tránh nhắc đến cuộc cải cách tôn giáo trong lịch sử và các nội dung Thần học cụ thể khác.

Con người trong quá khứ, vì thân nằm trong cảnh nên họ rất khó để có thể thấy được ảnh hưởng sâu rộng của các nhân tố như "bất nhị pháp môn", và "không cầu tìm bên ngoài" đối với việc tu hành và tín ngưỡng của con người, thậm chí đối với toàn bộ xã hội. Chỉ sau khi lịch sử đã đi qua, nhìn lại cổ kim, chúng ta mới có thể cảm khái sâu sắc về tầm quan trọng của một số điều mà các Giác Giả đã nhấn mạnh khi truyền Pháp, giảng Đạo cho nhân loại.

May mắn thay, trong thời đại ngày nay, dưới sự nỗ lực của nhiều chí sĩ đầy lòng nhân ái, văn hóa và nghệ thuật truyền thống đã bắt đầu khôi phục, nhân tâm cũng theo đó mà trở về con đường chính nghĩa, tương lai cũng sẽ được quy chính về trạng thái thuần tịnh hơn, và triển hiện sự huy hoàng thực sự của văn hóa Thần truyền.

(Hết)

Nam Phương

Theo Arnaud H. - The Epoch Times

Tài liệu tham khảo (tác giả – tên tác phẩm – năm xuất bản):

  1. Arnaud Hu – L’art et l’esprit de la Renaissance française – 2017
  2. Claude Soret – 156 curiosités de Venise – 2006
  3. Colin Jones – The Cambridge Illustrated History of France – 1999
  4. École du Louvre – Histoire Générale de l’Art – 2006
  5. Eric Dursteler – A Companion to Venetian History, 1400-1797 – 2014
  6. Horst Waldemar Janson – Histoire de l’art de la préhistoire à nos jours – 1962
  7. Jacob Burckhardt – La Civilisation en Italie au temps de la Renaissance – 1860
  8. Jacques Barzun – From Dawn to Decadence: 500 Years of Western Cultural Life, 1500 to the Present – 2000
  9. Léonard de Vinci – Traité de la peinture – 1651
  10. Marc Venard & Anne Bonzon – La religion dans la France moderne XVIe-XVIIIe siècle – 1998
  11. Martin Kemp – The Oxford History of Western Art – 2000
  12. William Fleming – Arts and Ideas – 1955
  13. William Shakespeare – Venus and Adonis – 1593



BÀI CHỌN LỌC

Từ một giai đoạn lịch sử nghệ thuật thấy được sự thay đổi của tư tưởng nhân loại (Phần 3)