Ấu học Quỳnh Lâm - Bài 37: Thiên mệnh của Lỗ Ban

Giúp NTDVN sửa lỗi

Tài nghệ của Lỗ Ban quả thực cao siêu, theo sử sách ghi chép, ông đã từng đẽo tre và gỗ để tạo ra một con đại bàng gỗ có thể bay trên không trong ba ngày mà không rơi xuống. Ngoài ra, ông còn chế tạo ra một con ngựa có thể tự đi, kỹ thuật chế tác đến triều Hán mới bị thất truyền. Ngoài ra, ổ khóa, cối xay bằng đá, thang...  đều là phát minh của ông và có ảnh hưởng sâu sắc đến các thế hệ sau.

Nguyên văn

公輸子削木鳶,飛天至三日而不下;張僧繇畫壁龍,點睛則雷電而飛騰。

Bính âm

Gōngshū zǐ xuē mù yuān, fēitiān zhì sān rì ér bùxià; zhāng sēng yáo huà bì lóng, diǎn jīng zé léidiàn ér fēiténg.

Hán Việt

Công Thâu Tử tước mộc diên, phi thiên chí tam nhật nhi bất hạ; Trương Tăng Diêu họa bích long, điểm tình tắc lôi điện nhi phi đằng.

Giải thích nghĩa của từ

(1) 公輸子 Công Thâu Tử: tức Lỗ Ban, là người nước Lỗ vào cuối thời Xuân Thu, là một thợ thủ công nổi tiếng ở Trung Quốc cổ đại.

(2) 木鳶 Mộc diên: con đại bàng bằng gỗ.

(3) 張僧繇 Trương Tăng Diêu: một người gốc Lương ở Nam triều. Ông là một họa sĩ nổi tiếng, giỏi vẽ chân dung và những cố sự trong tôn giáo. Rất nhiều bức tranh trong các chùa lúc đó là do ông vẽ.

(4) 點睛 Điểm tình: vẽ con mắt.

Bản dịch tham khảo

Công Thâu Ban đẽo tre và gỗ thành một con đại bàng, nó bay lên trời trong ba ngày mà không rơi; Trương Tăng Diêu vẽ một con rồng trên tường của chùa An Lạc ở Kim Lăng. Sau khi ông vẽ mắt, sấm sét nổi lên, con rồng trên bức tường lao ra và bay lên trời.

Đọc sách bút đàm

Trong bài học này, chúng ta sẽ chủ yếu bàn luận đến Lỗ Ban, nhân vật mà mọi người quen thuộc nhất. Lỗ Ban được coi là tổ sư nghề thủ công ở Trung Quốc, cuộc đời của ông có rất nhiều điều thần kỳ, sinh ra hương thơm khắp phòng, hạc bay tới tụ tập quanh nhà, đến lúc tuổi già qua đời lại dùng phương thức bạch nhật phi thăng của người tu Đạo đắc Đạo thành Tiên.

Ông không chỉ chế tạo ra con đại bàng bằng gỗ có thể bay và chở người lên không trung, mà còn chế tạo ra người máy như thật , để lại kỹ thuật thần kỳ làm bò gỗ và ngựa gỗ; ông cũng không ngừng bảo hộ cho các đệ tử và thợ thủ công trong suốt các thế hệ sau, khắp nơi đều có lưu lại Thần tích và truyền thuyết, vì vậy ông được coi là Xảo Thánh Tiên Sư, sánh ngang với cả Chí Thánh Tiên Sư Khổng Tử, khắp các nơi ở châu Á đều có miếu thờ ông, ông được tôn vinh ở mức độ cao nhất cùng với Khổng Tử.

Lỗ Ban được coi là tổ sư nghề thủ công ở Trung Quốc.
Lỗ Ban được coi là tổ sư nghề thủ công ở Trung Quốc. (Wikimedia commons)

Lỗ Ban và Khổng Tử, thiên mệnh hỗ trợ cho nhau

Lỗ Ban sống vào cuối thời Xuân Thu và đầu thời Chiến Quốc, ông và Khổng Tử không những đều là người nước Lỗ, mà còn sống trong cùng một thời đại. Năm mười lăm tuổi, ông tôn học trò của Khổng Tử là Đoan Mộc làm sư, sau vài tháng có thể thông hiểu đạo lý mọi mặt, thế rồi ông cũng đi nhiều nước du thuyết như Khổng Tử, hy vọng họ sẽ tôn trọng Chu thiên tử, từ bỏ phân tranh, nhưng cũng không thành công như Khổng Tử, nên Lỗ Ban quy ẩn ở núi Thái Sơn. Sau khi ẩn cư 13 năm, ông được một cao nhân chỉ điểm, ngộ được thiên mệnh của mình là đến thế gian để truyền kỹ thuật thủ công, từ đó Lỗ Ban dốc lòng nghiên cứu về gỗ và đá, chứng ngộ ra rất nhiều công cụ và kỹ thuật ảo diệu, rồi truyền thụ cho đệ tử.

Nếu như Khổng Tử sau khi chu du liệt quốc thất bại, mà ngộ ra rằng lấy phương thức giáo dục mà tuyên dương giáo hoá đạo đức là thiên mệnh của mình, thì Lỗ Ban lại đi theo một con đường khác. Ông lấy kỹ năng công nghệ mà bách tính khắp thiên hạ cần nhất để truyền thụ “quy tắc" và “tiêu chuẩn" làm người, lấy phương thức triển hiện Thần tích, tu đạo thăng thiên để điểm ngộ cho hậu nhân sự tồn tại của thiên đạo, khiến cho bách tính dân gian đời đời kiếp kiếp không ngừng sử dụng công cụ và kỹ nghệ mà ông lưu lại, đồng thời tế bái ông, hiểu được việc kính thiên trọng đức, không quên đi con đường trở về cuối cùng, đó là tu Đạo thành Thần. Ông lấy kỹ thuật để tạo phúc cho bách tính, lấy kỹ thuật tuyên dương giáo hoá đạo đức, bước đi trên một con đường khác tương phụ tương thành với Khổng Tử.

西安长乐门城楼中国古代云梯仿制品

Thang mây cổ đại (phục chế). (Nguồn: wikipedia)

Cưa, bào, xẻng, thước cuộn, quy, củ, ống mực... dùng cho thợ thủ công ngày nay; cối đá xay lúa, bàn tính dùng cho thương gia, thang dùng trong quân sự, "neo" dùng cho tàu chiến v.v. tất cả đều do Lỗ Ban phát minh ra. Trong suốt 2500 năm trước thời Cách mạng Văn hóa, phàm ở đâu có các công trình dân dụng, động thổ xây nhà, thì trước hết phải tế Lỗ Ban, để cầu được bảo hộ và chỉ điểm. Từ hoàng đế cho đến thường dân, ai cũng tôn ông làm tiên sư.

Điện Thánh Mẫu vào triều Tống, Lỗ Ban hiển Thần tích

Điện Thánh Mẫu trong Tấn Từ, thành phố Thái Nguyên, tỉnh Sơn Tây, cao 19 mét, toàn bộ đại sảnh rất nguy nga và tráng lệ. Nhưng điều kỳ diệu là trong điện rộng rãi như thế, nhưng không có một cột trụ nào để chống đỡ.

圣母殿

Điện Thánh Mẫu trong Tấn Từ, thành phố Thái Nguyên, tỉnh Sơn Tây. (Nguồn: wikipedia)

Vào thời nhà Tống, triều đình đã ra sắc lệnh xây dựng Điện Thánh Mẫu ở Tấn Từ, bên trong điện còn muốn đặt 43 bức tượng. Thời hạn của triều đình sắp đến gần, nhưng những người thợ thủ công không nghĩ ra được phương án kỹ thuật nào cả. Bỗng một hôm có một cụ già tóc bạc phơ đi đến công trường và dựng nên một mô hình điện đường thu nhỏ, trong điện không có một cột trụ nào, hóa ra cụ già này đã thật khéo léo đặt điểm chịu lực của toàn bộ điện đường lên cột trụ và cột mái hiên xung quanh.

Những người thợ thủ công xem xét, thấy đây chính là mô hình Điện Thánh Mẫu mà họ muốn xây, sau khi định thần lại để tìm cụ già đó, thì cụ đã biến mất. Có người hiểu ra cụ già này chính là Lỗ Ban hiển linh. Để tưởng nhớ Lỗ Ban, người đã hóa thân thành cụ già hướng dẫn những người thợ thủ công, họ đã xây một ngôi miếu Lỗ Ban ở cách Điện Thánh Mẫu không xa.

Ở khắp nơi ngươi ta đều lưu truyền những truyền thuyết như vậy, nhiều không kể xiết. Thiên mệnh của ông là không ngừng để cho mọi người hiểu rằng kỹ thuật là do Thần truyền, con người nhất định phải biết kính trọng Trời đất.

Kể chuyện

Tổ sư nghề thủ công - Lỗ Ban

Công Thâu Tử, họ là Công Thâu, tên là Ban, là người Lỗ quốc vào thời cuối Xuân Thu. Chữ “般” và “班” đồng âm, thời cổ thường dùng, lại vì ông là người nước Lỗ, nên người ta gọi ông là Lỗ Ban.

Tục truyền, khi Lỗ Ban ra đời, những con hạc báo điềm lành bạy đến tụ tập, trong phòng toả mùi hương thơm ngát. Ông từ nhỏ đã thể hiện ra khả năng quan sát nhạy bén, thích động não phát minh ra nhiều công cụ hữu dụng và tinh xảo. Cả đời Lỗ Ban đã nghiên cứu kỹ thuật nghề mộc, phát minh ra rất nhiều công cụ, ông có nhiều đóng góp cho kiến ​​trúc, chế biến gỗ và máy móc, được hậu thế tôn sùng làm tổ sư nghề thủ công của Trung Quốc.

Một hôm, Lỗ Ban đưa người học việc lên núi chặt cây, trên đường đi, tay của ông không cẩn thận bị cỏ dại cắt bị thương. Ông nhổ cây cỏ lên và quan sát kỹ thì thấy mép của những ngọn cỏ mọc ra rất nhiều răng nhỏ, rất sắc bén. Lỗ Ban liền mô phỏng theo làm một khúc tre dài có nhiều răng nhỏ và mảnh, sau khi thử nghiệm cho thấy hiệu quả không tệ, nhưng khúc tre dễ bị mài mòn, dễ gãy và bị cùn. Lỗ Ban thử đi thử lại, cuối cùng thay thế khúc tre bằng một đoạn sắt, rồi ông cùng với đồ đệ kéo mỗi người một đầu, kéo qua kéo lại trên thân cây, và chẳng bao lâu sau đã cưa đổ cây. Cái cưa đã được phát minh ra như thế.

“Dây mực” được các thợ thủ công sử dụng để vẽ các đường thẳng là một trong những phát minh của Lỗ Ban. Khi làm đồ gỗ và cần dùng dây mực để vẽ một đường thẳng, ông luôn nhờ mẹ kéo một đầu, còn ông kéo đầu kia, mới có thể vẽ đường thẳng trên gỗ được. Về sau, Lỗ Ban thiết kế một chiếc móc nhỏ ở đầu dây, và móc chiếc móc vào một đầu thanh gỗ, như thế chỉ cần một người là có thể vẽ được đường thẳng. Cái móc đã thay thế công việc của mẫu thân ông, nên những người thợ mộc sau này gọi cái móc “ban mẫu”.

Thước vuông dùng để đo góc (hay còn gọi là thước vuông hay thước Lỗ Ban) dùng để đo góc vuông cũng là một phát minh của Lỗ Ban. Thước vuông, tung dài hoành ngắn, có thể dùng để đo các góc vuông, cân bằng các đường và độ dài ngắn. Đến nay vẫn là một công cụ được sử dụng rộng rãi trong nghề mộc.

Thước vuông dùng để đo góc (hay còn gọi là thước vuông hay thước Lỗ Ban) dùng để đo góc vuông cũng là một phát minh của Lỗ Ban
Thước vuông dùng để đo góc (hay còn gọi là thước vuông hay thước Lỗ Ban) dùng để đo góc vuông cũng là một phát minh của Lỗ Ban. (Miền cộng đồng)

Khi đang bào gỗ, Lỗ Ban phải nhờ thê tử giúp để không bị trượt, sau này, ông đã phát minh ra cách dùng cọc giữ gỗ, chỉ cần một người là có thể bào gỗ. Các thế hệ thợ mộc sau này gọi đoạn gỗ ngắn này là “Ban thê".

Tài nghệ của Lỗ Ban quả thực cao siêu, theo sử sách ghi chép, ông đã từng đẽo tre và gỗ để tạo ra một con đại bàng gỗ có thể bay trên không trong ba ngày mà không rơi xuống. Ngoài ra, ông còn chế tạo ra một con ngựa có thể tự đi, kỹ thuật chế tác đến triều Hán mới bị thất truyền. Ngoài ra, ổ khóa, cối xay bằng đá, thang... đều là phát minh của ông và có ảnh hưởng sâu sắc đến các thế hệ sau.

Vẽ rồng điểm mắt - Trương Tăng Diêu

Trương Tăng Diêu, một họa sĩ thời nhà Nam Lương, rất giỏi vẽ chân dung và các cố sự trong tôn giáo, tranh vẽ trong các Phật tự thời đó rất nhiều là do ông vẽ. Ông tiếp thu kỹ pháp "hoạ tiết lồi lõm" trong hội hoạ Thiên Trúc, nhân vật và tượng Phật mà ông vẽ ra tạo cảm giác lập thể, sống động như thật.

Lúc bấy giờ, Lương Vũ Đế vì nhớ các hoàng tử nhận thụ phong ở bên ngoài nên đã lệnh cho Trương Tăng Diêu vẽ chân dung của họ, chân dung mỗi vị hoàng tử đều được vẽ sống động vô cùng, nhìn chân dung như nhìn thấy người thật vậy.

Trương Tăng Diêu đã từng vẽ bức "Bức tranh Nhị Hồ tăng Thiên Trúc", và sau đó vì chiến loạn mà hình hai Hồ tăng trong bức tranh bị ly tán. Vào thời nhà Đường, Lục Kiên đã thu thập một trong những bức vẽ một Hồ tăng. Về Sau, Lục Kiên lâm bệnh nặng, một đêm nằm mơ thấy một Hồ tăng nói với ông rằng: Có một người bạn đồng hành đã ly tán nhiều năm, nay ở Lý gia ở Lạc Dương, hy vọng Lục Kiên có thể tìm được người ấy và để họ trở về cũng chỗ, họ sẽ dùng pháp lực giúp đỡ ông. Lục Kiên theo lời của Hồ tăng đó, đến Lý gia ở Lạc Dương, quả thực có một bức Hồ tăng khác, ông đã mua bức chân dung đó. Không lâu sau, Lục Kiên khỏi bệnh.

Trương Tăng Diêu đã từng vẽ bức "Bức tranh Nhị Hồ tăng Thiên Trúc"
Trương Tăng Diêu đã từng vẽ bức "Bức tranh Nhị Hồ tăng Thiên Trúc" (Miền cộng đồng)

Còn thành ngữ “Họa long điểm tình" cũng liên quan đến các hội hoạ của Trương Tăng Diêu. Theo “Lịch đại danh hoạ ký”: Một năm nọ, Trương Tăng Diêu đã theo thỉnh cầu của trụ trì chùa An Lạc ở Kim Lăng, mà vẽ bốn con rồng lên tường của ngôi chùa, những con rồng này trông sống động vô cùng, khiến người xem không ngớt lời tán thưởng, nhưng lại không có mắt. Mọi người không hiểu, thỉnh cầu ông vẽ thêm mắt cho rồng. Nhưng ông không chịu vẽ, và nói: “Con mắt là nơi tinh thần cư ngụ, nếu vẽ mắt lên, rồng sẽ có sức sống, sẽ liền bay đi mất". Hết thảy mọi người đều không tin, hết lần này lần khác bảo ông vẽ mắt cho rồng. Trương Tăng Diêu đành phải cầm bút vẽ mắt cho hai con rồng, vừa vẽ xong, thì sấm sét nổi lên, hai con rồng phát tường mà bay ra, rồi bay lên trời. Còn hai con rồng chưa vẽ mắt thì vẫn ở trên vách tường.

Trương Tăng Diêu đã theo thỉnh cầu của trụ trì chùa An Lạc ở Kim Lăng, mà vẽ bốn con rồng lên tường của ngôi chùa
Trương Tăng Diêu đã theo thỉnh cầu của trụ trì chùa An Lạc ở Kim Lăng, mà vẽ bốn con rồng lên tường của ngôi chùa. (Đại Kỷ Nguyên)

Kể từ đó, "Họa long điểm tình" thường được dùng như một cách nói ẩn dụ trong hội hoạ, văn chương, thuyết thoại, ở chỗ trọng yếu nhất thêm vào một nét bút, nhằm làm nổi bật điểm chính và làm cho toàn bộ tác phẩm trở nên sinh động.

Lam Sơn
Theo Epochtimes



BÀI CÙNG CHUYÊN ĐỀ

BÀI CHỌN LỌC

Ấu học Quỳnh Lâm - Bài 37: Thiên mệnh của Lỗ Ban