Chuyên gia: Khủng hoảng ngân hàng dẫn đến Thắt chặt tín dụng tại Mỹ

Giúp NTDVN sửa lỗi

Sau sự sụp đổ gần đây của một số ngân hàng tại Mỹ, người dân nước này đang gặp khó khăn hơn trong việc vay ngân hàng.

Vì các ngân hàng nhỏ hơn là rất quan trọng đối với hoạt động cho vay tiêu dùng và cho vay doanh nghiệp nhỏ, nhiều nhà phân tích dự đoán hậu quả từ chiến dịch kiềm chế lạm phát của Cục Dự trữ Liên bang (Fed) sẽ gây ra những hậu quả nghiêm trọng cho nền kinh tế.

"Cho vay ngân hàng đạt đỉnh vào tháng 5/2020 với mức tăng trưởng 11% so với cùng kỳ năm trước", theo Steve Hanke — giáo sư Kinh tế học Ứng dụng tại Đại học Johns Hopkins — chia sẻ với tờ Epoch Times. "Hiện tại, con số đó đã giảm xuống còn 5,5% mỗi năm".

"Sau sự sự sụp đổ của Ngân hàng Thung lũng Silicon, Ngân hàng Silvergate, và Ngân hàng First Republic, tôi dự đoán rằng hoạt động cho vay của ngân hàng sẽ tiếp tục giảm tốc khi thị trường tín dụng thắt chặt", giáo sư Hanke — người từng phục vụ trong Hội đồng Cố vấn Kinh tế của Tổng thống Ronald Reagan — cho biết.

Theo báo cáo ngày 16/3/2023 của Goldman Sachs, "khi căng thẳng lan rộng khắp các ngân hàng nhỏ hơn ở Mỹ, việc thắt chặt các điều kiện cho vay trong các tổ chức đó dự kiến sẽ làm giảm tăng trưởng kinh tế năm nay".

Mặc dù các ngân hàng đã sụp đổ chỉ chiếm 1% tổng lượng cho vay, nhưng hiện tại nhiều ngân hàng khác cũng gặp vấn đề tương tự. Các ngân hàng có tỷ lệ cao dư nợ cho vay so với tổng tiền gửi (LDR) cung cấp 20% tổng số khoản vay, các ngân hàng có tỷ lệ thấp tiền gửi được bảo đảm bởi FDIC cung cấp 7%, và các ngân hàng có tỷ lệ thấp tiền gửi cá nhân cung cấp 4%.

Các ngân hàng nhỏ hơn — có tài sản dưới 250 tỷ USD — chiếm khoảng 50% khoản cho vay kinh doanh, 60% khoản cho vay bất động sản nhà ở, 80% khoản cho vay bất động sản thương mại, và 45% khoản cho vay tiêu dùng tại Mỹ, theo Goldman Sachs cho hay.

Ngoài ra, các ngân hàng nhỏ hơn cũng đã chảy máu tiền gửi khi khách hàng đổ xô đến các ngân hàng lớn hơn và các quỹ thị trường tiền tệ, theo nhà kinh tế Mohamed El-Erian bình luận trên Financial Times, và các khoản vay mà họ cung cấp "không chắc sẽ được thực hiện ở bất kỳ quy mô nào bởi những nơi hưởng lợi từ dòng tiền gửi chảy ra".

"Chúng ta đang đi đến một cuộc thắt chặt tín dụng", giáo sư Steve Hanke nói. "Chúng ta biết rằng một cuộc suy thoái chắn chắn sẽ xảy ra vì nguồn cung tiền (M2) đã giảm mạnh, giảm 2,9% kể từ tháng 3/2022".

M2 thể hiện tiền mặt và tiền gửi ngân hàng ngắn hạn; đây được coi là một chỉ báo chính về lạm phát nếu nó tăng nhanh hơn tăng trưởng GDP, hoặc báo hiệu suy thoái kinh tế nếu tăng chậm hơn tăng trưởng GDP.

"Thật không may, Fed không chú ý đến tốc độ tăng trưởng cung tiền", ông Hanke nói. "Kết quả là, họ đã tăng đáng kể lãi suất quỹ liên bang của Fed và tiến hành [thắt chặt định lượng]".

"Sự kết hợp chết chóc này đã khiến cung tiền (M2) giảm 2,9% kể từ tháng 3/2022", ông nói. "Hiện tại, tốc độ tăng trưởng M2 hàng năm là –2,4%, trong khi tốc độ tăng trưởng vàng, như tôi tính toán để phù hợp với mục tiêu lạm phát 2%, là khoảng 5,5%. Điều này báo hiệu rắc rối cho thị trường tín dụng".

James Bullard — chủ tịch Ngân hàng Dự trữ Liên bang Khu vực St. Louis — cho rằng "còn quá sớm để nói được rằng chúng ta sẽ trải qua loại thắt chặt nào".

Một tuyên bố ngày 22/3/2023 của Fed cho thấy họ tin rằng, mặc dù cuộc khủng hoảng ngân hàng "có khả năng dẫn đến các điều kiện tín dụng thắt chặt hơn đối với các hộ gia đình và doanh nghiệp, đồng thời ảnh hưởng đến hoạt động kinh tế, tuyển dụng, và lạm phát… thì mức độ của những tác động này là [còn] bất định". Fed tuyên bố "vẫn rất lưu tâm đến rủi ro lạm phát", cho thấy rằng các đợt tăng lãi suất bổ sung có thể sắp diễn ra.

Một cuộc khảo sát người tiêu dùng vào tháng 4/2023 của Fed cho thấy, kỳ vọng lạm phát đã tăng 0,5% trong tháng 3 lên 4,7%, đánh dấu mức tăng đầu tiên kể từ tháng 10/2022. Đồng thời, mức tăng lương trung vị kỳ vọng bởi người Mỹ là 3%, cho thấy mức sống tiếp tục giảm so với lạm phát, trong khi "tỷ lệ hộ gia đình báo cáo rằng [họ] khó vay tín dụng hơn một năm trước [đang] tăng lên và đạt mức cao kỷ lục [tính từ tháng 12/2022]".

Chính sách thắt chặt định lượng của Fed diễn ra sau một thập kỷ nới lỏng định lượng, khi đó Fed đã tích lũy hơn 6 nghìn tỷ USD trái phiếu kể từ cuộc khủng hoảng cho vay thế chấp năm 2008 đến đợt phong tỏa COVID năm 2020, và con số này đã tăng lên hơn 8 nghìn tỷ USD tính đến năm 2022.

Trong một chiến lược thử nghiệm, Fed đã tích lũy trái phiếu kho bạc và chứng khoán bảo đảm bằng thế chấp với số lượng chưa từng có trong lịch sử, làm tràn ngập thị trường với USD để giảm lãi suất dài hạn xuống, trong khi vẫn giữ lãi suất ngắn hạn ở mức gần bằng 0 — tất cả nhằm nỗ lực không ngừng để kích thích nền kinh tế và nâng cao giá trị tài sản.

Bây giờ Fed đang bắt đầu đảo chiều để chống lạm phát, họ đang bắt tay vào một chính sách cũng mang tính thử nghiệm không kém là thu hẹp bảng cân đối kế toán. Hậu quả của việc thắt chặt định lượng đối với hệ thống ngân hàng và nền kinh tế thực sự là không thể đoán chắc được.

Theo một số nhà kinh tế, Fed nên tập trung vào nguồn cung tiền như nhân tố tác động chính đến lạm phát và không nên bị phân tâm bởi các yếu tố khác.

"Fed nên chú ý đến Thuyết số lượng tiền tệ, và nên chấm dứt nỗi ám ảnh về việc phụ thuộc vào dữ liệu cũng như theo đuổi hàng nghìn con thỏ không liên quan cùng lúc", giáo sư Hanke nói. "Tóm lại là, Fed đang chú ý đến tạp âm và bỏ lỡ tín hiệu".

Theo The Epoch Times

Cao Dương biên dịch



BÀI CHỌN LỌC

Chuyên gia: Khủng hoảng ngân hàng dẫn đến Thắt chặt tín dụng tại Mỹ