Thời Tam Quốc loạn lạc vì sao chỉ có nội chiến mà không có ngoại xâm?

Giúp NTDVN sửa lỗi

Đối với các Vương triều Trung Nguyên, ngoại xâm rất phổ biến, chủ yếu kẻ thù ở phía bắc, như Hung Nô, Đột Quyết, Tiên Ti, Khiết Đan, Nữ Chân, Mông Cổ, các bộ tộc du mục khác… chiến tranh dường như liên miên.

Từ cuối thời Đông Hán đến thời Tam Quốc, Trung Nguyên loạn lạc, từ loạn Đổng Trác đến loạn quân phiệt cát cứ, rồi đến thời kỳ Tam Quốc phân tranh, về mặt lý thuyết mà nói, khi nội chiến xảy ra chính là lúc dễ dẫn đến ngoại xâm nhất. Trong thời kỳ Tam Quốc này, về cơ bản là có các cuộc nội chiến giữa các vương hầu, nhưng ít có ngoại xâm. Vậy tại sao? Và ai đang chống lại kẻ thù ngoại bang bảo vệ biên cương các nước Tam Quốc?

Lưỡng Hán đã thiết lập cục diện khá tốt ở phía bắc

Thời Lưỡng Hán, kẻ thù lớn nhất của Hán triều là người Hung Nô ở phía bắc. Lưu Bang suýt chết trong cuộc bao vây ở Bái Đăng, sau đó Lưu Bang đã tạm thời liên minh với người Hung Nô để duy trì hòa bình.

Cho đến thời Hán Vũ Đế, dưới sự cai quản của Văn Đế và Cảnh Đế, nhà Hán hùng mạnh chưa từng có, sau đó Hán Vũ Đế phát động tổng phản công Hung Nô, dưới sự lãnh đạo của Vệ Thanh, Hoắc Khứ Bệnh và nhiều tướng lĩnh khác, Hung Nô đã bị đánh bại, nguyên khí tổn thương lớn. Mặc dù Hán Vũ Đế đã cử đội quân tinh nhuệ để tiêu diệt Hung Nô, nhưng Hung Nô vẫn không bị tiêu diệt hoàn toàn.

Hán Vũ Đế danh vọng ngang Tần Thủy Hoàng, được tôn xưng là “Tần Hoàng Hán Vũ”, cùng Đường Thái Tông nổi danh “Hán Đường thịnh thế” thiên cổ lưu danh. (Dữu Tử/ Epochtimes)

Cho đến năm 89 sau Công nguyên, Đậu Hiến đã dẫn quân chinh phục Hung Nô, "chặt đầu 13.000 binh thu được hơn một triệu con ngựa, gia súc, cừu và lạc đà." Hơn 200.000 người đã đầu hàng trước và sau cuộc chiến, Bắc Hung Nô về cơ bản đã bị tiêu diệt, phần tàn dư tháo chạy đến nước Khang Cư, trong khi Nam Hung Nô quy phục nhà Hán.

Ở một mức độ nào đó, việc nhà Hán liên tiếp gây chiến với phương bắc đã tạo cho thời Tam Quốc một môi trường bên ngoài tương đối ổn định, đương nhiên không phải là không có ngoại địch, mà là tương đối yếu. Mãi đến thời Tây Tấn loạn Bát Vương, những người du mục phương bắc đó mới nhân cơ hội tiến xuống phía nam một lần nữa, đại loạn lại bắt đầu.

Những lần bắc phạt của Tào Tháo

Năm 207, kẻ thù phiền phức nhất của Tào Tháo là Ô Hoàn. Sau khi Viên Thiệu chết, Viên Thượng và Viên Hi đào tẩu đến Ô Hoàn, vì vậy Tào Tháo đã lên kế hoạch xuất binh quét sạch Ô Hoàn. Trước đó, Viên Thiệu đã xoa dịu Ô Hoàn, và mối quan hệ giữa hai bên hòa hảo, vì vậy Viên Thượng và Viên Hi có thể đào tẩu đến Ô Hoàn.

Ngoài việc tiêu diệt đội quân tàn dư của Viên Thiệu, mục tiêu khác của Tào Tháo là bình định Ô Hoàn. Vào cuối thời Đông Hán, Trung Nguyên tương đối hỗn loạn, khi Tiên Ti và Ô Hoàn phát triển tương đối mạnh, họ thường xuyên quấy rối biên giới của nhà Hán và giết người cướp của, ảnh hưởng cũng khá nặng, sách lược của Tào Tháo cũng là để giải quyết dứt điểm hai vấn đề.

Tào Tháo
Tào Tháo - kỳ nhân Tam Quốc. (The Epoch Times)

Theo sử sách ghi lại: "Vào tháng 8 năm 207, đội quân Tào và quân địch gặp nhau ở núi Bạch Lang, Ô Hoàn binh nhiều tướng mạnh nhìn rất uy vũ, nhưng đội quân chủ lực của Tào Tháo vẫn chưa tới, các tướng lĩnh sắc mặt lộ vẻ sợ hãi. Tào Tháo thân kinh bách chiến, không chỉ có quyền mưu mà còn có kinh nghiệm phong phú, Tào Tháo đứng cao nhìn xa, phát hiện quân trận Ô Hoàn chưa bày xong, lập tức hạ lệnh, không đợi quân chủ lực đến, trực tiếp tiến công. Tào Tháo phái Trương Liêu làm tiên phong, dẫn đầu khởi xướng tấn công như vũ bão, dưới sự công kích mãnh liệt của Tào quân, đội quân Ô Hoàn trở lên hỗn loạn, đến cả Mặc Đốn Thiền Vu cũng bị giết, Ô Hoàn đại bại, hơn 200.000 người đầu hàng, loạn Ô Hoàn được bình định”.

Vào tháng 8 năm 207, quân Ô Hoàn phản kháng, Tào Tháo phái đại tướng Tào Chương, Điền Dự dẫn quân bình phản, khi tiếp chiến Tào quân gặp quân địch phục kích, Điền Dự không hoảng loạn, tổ chức quân binh tạo thành hình khuyên phòng tuyến, đội quân được trang bị cung nỏ hướng đến quân địch bắt xối xả. Ô Hoàn bị tấn công không chống nổi liền rút lui, Điền Dự nhân cơ hội này phái binh xuất kích, Ô Hoàn quân đại bại.

Sau một thời gian dài, Điền Dự đóng quân nơi biên cương, nhờ tài điều binh khiển tướng, quân địch không dám xâm phạm, phương bắc yên ổn lâu dài. Những kẻ thù nước ngoài ở phía bắc đã chết dưới những cuộc chinh phạt lặp đi lặp lại của Tào Tháo. Tào Ngụy là chế độ hùng mạnh nhất trong Tam Quốc, với sức mạnh của mình, cùng với tướng quân Điền Dự và những tướng lĩnh khác, Ô Hoàn, Tiên Ti và các nhóm dân tộc khác đã bị đàn áp.

Cũng không phải là Ô Hoàn và các bộ tộc không muốn xâm chiếm xuống phía nam, mà là bọn họ không phải đối thủ của Tào Tháo.

Gia Cát Lượng bình định Nam Trung, Tôn Quân đem quân đánh Sơn Việt và các nơi khác

Trong các triều đại trước đây, hầu hết các mối đe dọa đến từ phía bắc, trong khi kẻ thù ở phía nam tương đối yếu hơn, vì lãnh thổ của Tào Tháo giáp với Ô Hoàn và Tiên Ti, trách nhiệm chống lại kẻ thù ở phía bắc đổ dồn lên vai Tào Tháo. Lưu Bị và Tôn Quyền tuy kém xa so với Tào Tháo nhưng cũng thừa sức đối phó với loạn phương nam.

Theo sử sách ghi lại: "Vào mùa xuân năm thứ 3, Lượng dẫn quân nam tiến, đến mùa thu được yên, quân vốn làm giàu cho nước, lấy việc cầm quân đánh giặc làm gốc, rèn luyện võ thuật, lấy đó để thực hiện một chiến dịch lớn."

Gia Cát Lượng. (Tranh Tố Tố - Epochtimes)

Năm 223, Lưu Bị qua đời, trước khi Lưu Bị băng hà đã trao quyền lại cho Gia Cát Lượng, quân vương qua đời dễ dẫn đến ngoại xâm, nghe tin Lưu Bị chết, các quận ở Nam Trung nhân cơ hội này nổi dậy. Gia Cát Lượng không vội xuất quân mà trước tiên phái người đến giảng hòa với Đông Ngô, để tránh mối lo về sau.

Năm 225, Gia Cát Lượng dẫn quân nam tiến, mục tiêu là vùng Nam Trung, nằm ở phía tây nam của Vân Nam, Quý Châu và Tứ Xuyên ngày nay. Thực lực ngoại tộc ở phía nam rõ ràng không mạnh bằng phía bắc, nhưng đối thủ của họ lại là Gia Cát Lượng, một người cực kỳ thông minh. Gia Cát Lượng sử dụng biện pháp không đánh mà thắng, dùng vũ lực làm phụ, lấy công tâm làm chủ.

Sau khi đánh bại quân Ung Khải, quân Thục tập trung vào Mạnh Hoạch. Mạnh Hoạch là thủ lĩnh của Nam Trung, chỉ cần ông ta nhân nhượng, quân của ông ta đương nhiên sẽ hạ vũ khí. Mạnh Hoạch không phải là đối thủ của Gia Cát Lượng, Gia Cát Lượng bảy lần bắt bảy lần lại thả, cuối cùng Mạnh Hoạch đã thành tâm quy phục.

Gia Cát Lượng xuất quân vào mùa xuân, dẹp loạn vào mùa thu và trở về triều đình vào tháng 12. Bởi vì Nam Trung đã được thu hồi, sức mạnh của Thục Hán cũng tăng lên rất nhiều, và lúc này mới có bàn đạp để thực hiện kế hoạch Bắc phạt.

Gia Cát Lượng tuy dùng nhiều mưu lược nhưng trên thực tế hai bên vẫn cần có thực lực, chính vì sức mạnh của quân Thục mà Mạnh Hoạch mới có thể thành tâm quy phục.

Theo sử sách: "Hạ Tề cầu xin chống Y tặc, Tưởng Khâm giám sát hàng nghìn binh, hợp lực với Hạ Tề cũng đủ để bình định Y tặc."

Khi nói đến Tôn Quyền, kẻ thù phía nam của Đông Ngô chủ yếu là các bộ lạc dân tộc thiểu số, bao gồm Sơn Việt, Ngũ Khê Di, v.v. Sơn Việt từng có một cuộc nổi loạn, Tôn Quyền đã phái Hạ Tề, Tưởng Khâm và các tướng khác để dẹp loạn. Mặc dù thời gian dẹp loạn tương đối dài, nhưng ảnh hưởng phụ diện lại tương đối hạn chế, so với cuộc nổi dậy ở Ô Hoàn và Nam Trung, vấn đề của Đông Ngô nhỏ hơn.

Ngô Đại đế Tôn Quyền, tranh vẽ thời Thanh. (Miền công cộng)

So với Hung Nô thời Hán, biên giới phía bắc và phía nam trong thời Tam Quốc tương đối ổn định, một mặt là do thực lực tương đối mạnh của ba nước, mặt khác là do thực lực tương đối yếu của các bộ lạc nên không có sự hỗn loạn quy mô lớn.

Lưu Bị, Tào Tháo, Tôn Quyền đều là quần thần của nhà Hán, tuy lần lượt xưng Vương, nhưng vẫn muốn giữ chút thể diện cho nhà Hán, cho dù trong một đoạn thời gian 3 nước xảy ra chiến tranh, nhưng sẽ không bao giờ để ngoại bang xâm lấn, mà có lẽ đó là sự thỏa thuận ngầm giữa 3 nước.

Lý Hoa - Aboluowang
Lý Ngọc biên dịch

Văn hoá Lịch sử


BÀI CHỌN LỌC

Thời Tam Quốc loạn lạc vì sao chỉ có nội chiến mà không có ngoại xâm?