Thuyết vị lợi của người Úc đã làm mờ đi lời thề Hippocrate

Giúp NTDVN sửa lỗi

Chủ nghĩa vị lợi truyền thống trong triết học phương Tây nhấn mạnh việc tối đa hóa hạnh phúc của con người, như một con đường lý tưởng dẫn đến cuộc sống tốt đẹp hơn. Tuy nhiên, khi tư tưởng này rơi vào tay những nhà tư tưởng Úc cấp tiến, nó đã thay đổi một bộ mặt hoàn toàn khác. Họ tìm cách nhổ bỏ các giá trị truyền thống, các giá trị đạo đức căn bản của con người.

Giả như chúng ta được sống trong một xã hội lý tưởng, được quản lý bởi các tiêu chuẩn thì sẽ không khó để giải thích về sự miễn cưỡng kỳ lạ của giới tinh hoa chính trị và y tế trong việc thừa nhận tác hại của vaccine COVID-19 đã gây ra cho nhiều người dân Úc.

Tại sao có một bộ phận xã hội lại dễ dàng chấp nhận việc hy sinh một vài cá nhân kém may mắn đến vậy, chỉ để chạy theo những lợi ích và mục tiêu trừu tượng như “sức khỏe cộng đồng” hay “miễn dịch cộng đồng”?

Bằng cách nào mà các mục tiêu cao cả nhưng vô hình này lại quan trọng hơn cả các mối quan tâm truyền thống: giảm thiểu tác hại do các can thiệp y tế gây ra?

Lời thề Hippocrate nay còn đâu?

Ban đầu, cộng đồng y tế và thế giới đã lấy lời thề Hippocrate thời cổ đại làm tiêu chuẩn đạo đức nghề y: "Đầu tiên, không gây hại".

Vì lợi ích của việc thúc đẩy một hệ sinh thái chăm sóc sức khỏe nhân văn, khi phát triển các loại thuốc mới, điều tiên quyết là phải đáp ứng đồng thời hai mục tiêu - một mặt tối đa hóa lợi ích cho bệnh nhân và mặt khác giảm thiểu tác dụng phụ của thuốc.

Tuy nhiên, bởi vì con người là sinh vật hiếm khi sống theo lý tưởng, cho nên lịch sử y học đã phải chứng kiến nhiều giai đoạn đáng tiếc khi hai mục tiêu này bất cân xứng.

Tuy nhiên, cam kết về tầm quan trọng của mỗi một mục tiêu đã tạo nên một môi trường thống nhất về mặt đạo đức, cho phép dần cải thiện các tiêu chuẩn chăm sóc y tế cũng như tính an toàn và hiệu quả của thuốc men.

Về cơ bản, những tiến bộ này được củng cố bởi niềm tin có hệ thống rằng, chỉ khi có điều gì đó đặc biệt thì cuộc sống của mỗi cá nhân mới trở nên bất ổn.

Ảnh của Epoch Times
Một người cha che mặt con trai khi tiêm vaccine Pfizer COVID-19 ở Balgowlah, Sydney, Úc, vào ngày 11/1/2022. (Ảnh Getty Images)

Hạnh phúc của con người lúc này trở thành mồi ngon cho tác dụng phụ của thuốc men.

Những niềm tin này cũng nhận được sự đồng tình khá lớn. Mặc dù xã hội có thể quan tâm đến việc thúc đẩy các biện pháp vô hình như “sức khỏe cộng đồng”, nhưng những tác dụng phụ có hại của ma túy lần đầu tiên được trải nghiệm bởi những cá nhân đơn độc, chứ không phải toàn thể xã hội. Cho nên các cá nhân cần phải lên tiếng về việc họ có muốn tiếp nhận phương pháp điều trị bằng thuốc mới hay không.

Trong những năm 1970 đầy biến động, lối suy nghĩ truyền thống này đã bị thách thức bởi một quan điểm hoàn toàn khác biệt xuất hiện ở Úc và dần dần định hình lại môi trường y tế.

Nó khởi phát từ một nhóm nhỏ các nhà triết học muốn lật ngược niềm tin truyền thống rằng con người là một thực thể đặc biệt.

Được biết đến với cái tên thân thiện: “Chủ nghĩa vị lợi Úc”, phong trào này được thành lập đầu tiên trong các trường đại học công lập dưới sự lãnh đạo của những nhà tư tưởng thẳng thắn như Helga Kuhse, Peter Singer...

Phong trào nhanh chóng trở thành mặt hàng xuất khẩu quốc gia mạnh mẽ nhất của chúng tôi. Các học giả được đào tạo tại Úc ủng hộ những quan điểm này hiện đang nắm giữ những chức vụ quan trọng ở một số trường đại học hàng đầu thế giới.

Chủ nghĩa vị lợi truyền thống trong triết học phương Tây nhấn mạnh việc tối đa hóa hạnh phúc của con người, như một con đường lý tưởng dẫn đến cuộc sống tốt đẹp hơn.

Tuy nhiên, khi tư tưởng này rơi vào tay những nhà tư tưởng Úc cấp tiến, nó đã thay đổi một bộ mặt hoàn toàn khác. Họ tìm cách nhổ bỏ các giá trị truyền thống, các giá trị đạo đức căn bản của con người.

Bước sang một ngã rẽ kiểu Greco-Roman, việc coi trọng những "tiện ích" - mức độ hữu ích của một người đối với toàn thể xã hội - đã trở thành thước đo ưa thích được giới tinh hoa sử dụng để đo lường giá trị của một cá nhân.

Có không ít người lo lắng rằng, xu hướng mới này sẽ mang đến một sự biện minh triết học cho việc chính thức coi thường người tàn tật và không hoàn hảo về mặt y học.

Thật vậy, những độc giả lớn tuổi có thể hồi tưởng lại khoảng thời gian những năm 70 và 80. Thời mà những người ủng hộ 'chủ nghĩa vị lợi Úc' sẵn sàng tiếp cận với các nền tảng truyền thông của đài truyền hình đại chúng như thế nào.

Họ dường như đã rời xa về đạo đức khi sẵn sàng xúc phạm các giá trị truyền thống bằng cách ủng hộ việc giết chết những đứa trẻ không hoàn hảo về mặt di truyền, trẻ sơ sinh khuyết tật hoặc người già yếu.

Tuy chủ nghĩa vị lợi Úc coi việc kết thúc cuộc sống không hoàn hảo của một cá nhân ở vị trí đầu tiên và là trung tâm của các ưu tiên đó, nhưng ta vẫn cần phải xem liệu xu hướng này coi trọng tác hại của ma túy hay không.

Ảnh của Epoch Times
Các nhóm nhỏ biểu tình về vấn đề phá thai đã tụ tập trước Tòa án Tối cao ở Washington vào ngày 29/11/1989, khi các thẩm phán nghe các tranh luận trong hai vụ phá thai. (Ảnh Getty Images)

Chủ nghĩa vụ lợi Úc tấn công các giá trị truyền thống như thế nào?

Trọng tâm của chủ nghĩa vị lợi Úc là các giá trị văn hóa liên quan đến “tính đặc biệt của con người” nay đã 'quá hạn sử dụng'.

Các nhà triết học lập luận rằng, nhiều người Úc đã ngừng đến nhà thờ từ những năm 60, vậy thì tại sao vẫn phải duy trì việc thực hành tôn giáo trong khi niềm tin đã bị bỏ rơi?

Do đó, các nhà tư tưởng hoạt động trong phong trào này đã bắt đầu hành động để giảm bớt “sự kế thừa văn hóa Judeo-Christian” bằng cách khôi phục các thực hành và lối sống thịnh hành trong văn hoá Greco-Roman tiền Cơ đốc giáo.

Tựa đề của cuốn sách "Unsanctifying Human Life" xuất bản năm 2002, tập hợp các bài tiểu luận của các nhà lãnh đạo của trường phái này đã tiết lộ về những tham vọng của họ: cắt giảm nhân loại xuống một kích cỡ nhất định bằng cách loại bỏ tàn tích văn hóa 2000 năm để “thánh hiến” hoặc “thánh hóa” sự tồn tại của con người.

Mặc dù nó tự quảng bá mình dưới ngọn cờ của chủ nghĩa cấp tiến, nhưng khía cạnh này của chủ nghĩa vị lợi Úc đã che giấu một xu hướng thụt lùi, lạc hậu.

Bằng cách gọi “Thời đại hoàng kim” cách đây 2000 năm — một thế giới nguyên thủy thiếu các thước đo về giá trị cuộc sống con người như trang thiết bị y tế hiện đại như bệnh viện sạch, thuốc kháng sinh hay xe cứu thương — chủ nghĩa vị lợi Úc đã gieo mầm mống cho cuộc khủng hoảng niềm tin vào các tổ chức y tế trong kỷ nguyên COVID.

Mặt khác, phong trào này đã thúc đẩy một chương trình nghị sự lập pháp rộng rãi trong các nghị viện, tập trung vào việc nâng cao “địa vị đạo đức” của “động vật không phải con người”.

Họ cho rằng, “sự đặc biệt của con người” có được bằng cách đánh đổi sự sống của các loài khác. Cho nên chúng ta phải đối xử với động vật giống như thời tiền Cơ đốc giáo.

Điều này liên quan đến một cảnh ngộ khác, vì chủ nghĩa vị lợi của Úc đã bỏ qua những trải nghiệm của động vật trong nền văn hóa Hy Lạp-La Mã cổ đại.

Các đấu trường La Mã thường xuyên chật cứng người hâm mộ khát máu. Ở đó, họ cổ vũ cho việc tàn sát voi, linh trưởng và hổ bởi các đấu sĩ mang kiếm - một thực tế phù hợp với giả định về một thế giới mất đi niềm tin rằng con người là một 'thực thể vô cùng đặc biệt và tuyệt vời' khi so sánh với động vật.

Không còn nghi ngờ gì nữa, một số thay đổi đã được những người ủng hộ Giáo sư Singer từ những năm 80 nhiệt liệt hoan nghênh, vì nó tạo điều kiện cho việc đánh giá lại một số hoạt động kém hiệu quả của động vật trong nông nghiệp, vườn thú và các địa điểm giải trí.

Tác động của chủ nghĩa vị lợi Úc đối với các nghiên cứu về độc chất học

Thật không may, khi chúng ta vẫn đang trong quá trình học hỏi thì Chủ nghĩa vị lợi Úc đã biểu hiện một mặt trái rõ rệt đối với một số ngành khoa học quan trọng.

Ít ai bị coi thường hơn độc chất học, ngành khoa học ngày càng trở nên quan trọng sau thảm họa thalidomide vào đầu những năm 60. Dị tật bẩm sinh thalidomide là hậu quả gây sốc bởi lòng tham con người trong việc phê duyệt một loại thuốc được kiểm nghiệm kém ra thị trường.

Để đối phó với sự ra đời của hàng nghìn trẻ sơ sinh bị thương tật vĩnh viễn, độc chất học đã phát triển thành thục — các tạp chí khoa học mới và các hội khoa học đã được thành lập, cùng với các khoa độc chất học và các chương trình cấp bằng trong các trường đại học.

Tuy nhiên, từ quan điểm của Chủ nghĩa vị lợi đang nổi lên ở Úc, độc chất học bị nghi ngờ.

Sự tin tưởng của họ rằng các loại thuốc và hóa chất mới phải được thử nghiệm kỹ lưỡng về độ an toàn trên các loài gặm nhấm như chuột cống và chuột nhắt trước khi áp dụng lên con người là điều không thể chấp nhận được, bởi vì những thí nghiệm kiểu như vậy dựa trên các giả định của “nhà nghiên cứu loài”. Chỉ có những tư duy đầy thành kiến ​​mới coi con người cao hơn chuột hay chuột cống về mặt đạo đức.

Để phù hợp với xu hướng mới, bắt đầu từ khoảng giữa những năm 80, chính quyền các bang trên khắp nước Úc bắt đầu thông qua luật hạn chế mạnh việc sử dụng các loài gặm nhấm trong nghiên cứu độc chất học.

Ảnh của Epoch Times
Một nữ trợ lý phòng thí nghiệm thí nghiệm trên một cặp chuột đã được tiêm chất chiết xuất từ ​​vi khuẩn lao nhằm tìm ra tác nhân miễn dịch đối với căn bệnh này ở New York, vào năm 1949. (Ảnh Getty Images)

Vào thời điểm tôi trở lại Úc vào năm 1993 sau khi đào tạo sau tiến sĩ về độc chất học ở nước ngoài, tôi đã rất thất vọng khi thấy rằng nửa tá nhà khoa học đầy cảm hứng, những người là hạt nhân của ngành độc chất học ở các trường đại học Úc vào những năm 80 đã sớm kết thúc sự nghiệp học tập của mình.

Hầu hết các doanh nghiệp tư nhân đều đổ lỗi cho chế độ quản lý, khiến việc nghiên cứu chất độc dựa trên động vật không thể thành hiện thực.

Cả một thế hệ lãnh đạo độc chất học đã bốc hơi trong các trường đại học, một kết quả thật tai hại cho việc đào tạo các nhà khoa học và sinh viên tương lai.

Kết quả là khoảng trống học thuật vẫn còn cho đến ngày nay, khiến cho các trường đại học của chúng ta yếu kém đáng kinh ngạc về chuyên môn khoa học và các nỗ lực giáo dục tập trung vào việc hiểu và giảm thiểu tác động có hại của các chất hóa học đối với con người.

Tất nhiên, đó chưa phải là toàn bộ câu chuyện. Song sự thống trị vô song của Chủ nghĩa vị lợi Úc trong giới tinh hoa trí thức của chúng ta có thể giải thích nguyên nhân rất ít quan chức nhà nước lo ngại về tác dụng độc hại của vaccine mRNA rõ ràng gây ra ở một số bệnh nhân Nga kém may mắn.

Nếu thế giới quan trị vì không thể duy trì tư duy khoa học nghiêm ngặt về các chất độc hại trong các trường đại học, thì những phân nhánh tiêu cực đối với người Úc bình thường cũng có thể xảy ra.

Thật đáng buồn khi tôi phải nói ra điều này, sự thờ ơ đối với tác hại do vaccine gây ra có thể vẫn còn tiếp tục ở Úc giống như một trò tiêu khiển mà thôi.

Quan điểm được trình bày trong bài viết này là ý kiến ​​của tác giả và không nhất thiết phản ánh quan điểm của NTDVN.

Huyền Anh



BÀI CHỌN LỌC

Thuyết vị lợi của người Úc đã làm mờ đi lời thề Hippocrate